
Tháng bẩy.
Ông Bình ngồi bên bếp lửa nói với ra giục vợ, giọng khàn khàn, mệt mỏi:
– Ướt hết người rồi, ốm vật ra thì khổ. Vào thôi, anh ấy khắc tìm được mà.
Khổ thân ông ấy, cứ những ngày mưa mù thế này mấy mảnh pháo còn sót ở đùi lại cựa quậy, đau nhức. Bà muốn vào xem chồng mình thế nào nhưng nhìn dòng người đang cuồn cuộn như một dòng sông chảy ngược lên mạn đường biên thì lại ngần ngừ. Nhỡ có anh ấy có trong đoàn người đang tới kia thì sao. Bà xoay chiếc hộp gỗ nhỏ trong hai bàn tay. Chiếc hộp anh ấy gửi, bốn mươi năm rồi. Vì chuyện gì đó đã khiến anh ấy quên chiếc hộp, bây giờ được nhìn lại sẽ nhận ra. Và, bốn mươi năm rồi, cảnh vật đổi khác nhiều lắm, anh ấy không nhận ra đâu. Con đường trước nhà năm ấy là con đường nhỏ chỉ có dân bản qua lại, những ngày mưa nhiều hằn lên vết chân trâu, bây giờ được mở rộng hơn nhiều lắm, sáu làn xe ô tô chạy, trải nhựa phẳng lỳ. Bốn mươi năm trước, cổng nhà là hàng tre uốn cong, xỏa xuống giống như một mái vòm xanh. Ngày làm con đường mới bà không cho phá hàng tre và cũng kiên quyết giữ bằng được khoảnh vườn rau kế bên, với lý do để anh ấy có quay lại đây sẽ nhận ra. Anh ấy hứa nhất định sẽ quay lại mà. Chiếc hộp là kỷ vật của mẹ, anh ấy không bỏ đâu. Nhưng cán bộ nói, ngày xưa anh ấy đi chiến đấu là vì đất nước chẳng nghĩ gì cho cá nhân mình, nay làm con đường lớn cũng vì lợi ích chung thôi mà.
Vào ngày tháng này trong năm, bà vẫn đứng đúng chỗ anh ấy đã nhờ bà giữ hộ chiếc hộp kỷ vật.
Bốn mươi năm trước.
Cô bé Thương mười bốn tuổi vừa xới đất luống rau cải mèo vừa lắng nghe tiếng ì ùng như sấm rền từ mạn đường biên vọng về. Pháo bắn đấy, đánh nhau to rồi, người lớn nói với nhau. Chiến tranh là thế nào, tiếng pháo ì ùng rền rĩ suốt đêm ngày kia nguy hiểm đến mức nào Thương không hình dung ra được. Nhưng nhìn con đường trước nhà bị xục lên thành bãi lầy do xe ô tô của bộ đội chạy suốt đêm ngày thì cũng biết chiến tranh phải ác liệt lắm.
– Này cô bé ơi!
Thương giật mình vì có tiếng gọi. Một anh bộ đội đứng ngoài bờ rào mỉm cười với Thương.
– Không phải cô bé đâu. – Thương đáp lại một câu vui vẻ vì thấy ánh mắt anh đang vui.
– Anh xin lỗi, nhìn em còn trẻ quá.
Nhưng không phải, cái vui chỉ thoảng qua thôi chứ ánh mắt anh ấy đang cố nén chịu nỗi mệt nhọc. Nhìn anh ấy ướt sũng nước mưa, lại đang run lên vì lạnh, Thương giục:
– Anh vào nhà sưởi ấm đã, ướt hết rồi.
– Anh vội lắm, phải đuổi theo đơn vị. Cho anh xin vài tầu cải được không, cả tuần nay không có rau, háo lắm.
Thương cắt cho anh ấy một ôm to rau cải.
– Rau xanh mướt, tầu to như lá chuối, thích thế!
Anh ấy ôm bó rau nâng niu như ôm đứa trẻ, như một báu vật được trao, xuýt xoa. Anh ấy chào Thương để đi nhưng bước chân lại ngập ngừng. Ánh mắt của anh lúc ấy không biết thế nào nhỉ; như là một lời cảm ơn; một hạnh phúc bất ngờ hay là dùng dằng khi lưu luyến phải chia tay với người thân thương. Trên mắt anh ấy có giọt nước đọng lại, rưng rưng. Anh ấy đi được mấy bước nhưng rồi vội quay lại, mở ba lô lấy ra chiếc hộp gỗ nhỏ đưa cho Thương, tay run run.
– Em giữ hộ anh! Chiếc hộp là kỷ vật của mẹ anh. Khi nào xuống được anh xin lại.
– Kỷ vật là thiêng liêng lắm, anh phải giữ lấy chứ.
– Anh phải lên trên kia, đường đi khó khăn, cho anh gửi rồi nhất định anh sẽ quay xuống xin lại.
– Anh lên có lâu không? Nhớ nhà em chưa?
– Nhớ chứ, nhà có cổng đẹp thế này, lại có cô bé xinh xắn đứng chờ nữa thì quên sao được.
Hình như anh ấy định nắm tay Thương để nói điều gì đó nhưng không thể. Rồi anh ấy đi vội về phía có tiếng pháo ì ùng ngày càng dữ dội hơn.
Pháo bắn ngày càng dày đặc hơn, tiếng nổ nghe đanh hơn, như tiếng từ dưới lòng đất dội lên. Nghe nhiều tiếng nổ tai ù đặc. Ánh mắt người lớn rưng rưng buồn ngóng lên đường biên. Mấy ngày sau, người dân thị xã ai cũng đeo tang trắng. Thương cũng được me quấn chiếc khăn trắng quanh đầu. Thương hỏi:
– Để tang ai hả me?
Me rân rấn nước mắt:
– Cho bộ đội hy sinh!
Mưa sậm sùi suốt tháng ấy. Giời khóc thầm cùng dân bản.
Lứa cải mèo mới gieo hôm gặp anh ấy, bây giờ đã được hái. Không có anh bộ đội nào tới nhà hỏi Thương. Tiếng ục uỳnh vẫn chưa dứt thì sao anh ấy xuống được. Thương lo lắm, ngày nào cũng cầm chiếc hộp đứng ở cổng ngóng chờ, gặp bộ đội nào đi qua cũng níu lại hỏi tin tức về anh ấy. Anh ấy ở đơn vị nào, ai cũng hỏi thế. Thương đưa cho các anh bộ đội xem chiếc hộp kỷ vật. Trong hộp có một ít kim chỉ, còn không một dấu tích nào thể hiện thông tin của chủ nhân. Thương tự trách mình, sao không hỏi anh ấy ở đơn vị nào, thậm chí hộp đựng gì cũng không hỏi. Lúc ấy chỉ thấy thương anh bộ đội nên chẳng biết phải hỏi gì. Bộ đội mình vất vả quá.
Mấy ngày nắng hanh nhanh chóng hong khô con đường. Những vệt bánh xe hằn sâu như rãnh ruộng cầy, những bưởng đất vênh lên như lưỡi dao sắc lẹm. Đi nương về tới cổng nhà, thấy anh bộ đội đi từ phía đường biên xuống, Thương đặt gùi sắn xuống đứng chờ. Mây đen bỗng đâu kéo về, trời đất sầm sì muốn mưa. Anh bộ đội đến gần, Thương hỏi:
– Anh ơi! …
Nhưng bỗng. Đoành!… Đoành! … Đoành!
Anh bộ đội nhao người nằm xoài xuống cạnh bờ tre.
Thương giật mình, ngơ ngác nhìn anh bộ đội, nhìn quanh không hiểu chuyện gì vừa xảy ra.
Anh bộ đội đứng dậy, ngượng ngùng thanh minh:
– Anh tưởng pháo bắn.
Nghe anh bộ đội nói vậy Thương ôm mặt khóc nấc. Thương khóc là theo phản xạ của lòng thương cảm chứ lúc ấy không thể giải thích được sao lại thế. Anh bộ đội giải thích:
– Tại ngày nào các anh cũng căng đầu lắng nghe tiếng rít của các loại đạn, phán đoán xem có bắn vào chỗ mình hay không thành phản xạ tự nhiên như thế.
– Anh có cùng đơn vị với anh có chiếc hộp này không?
Anh bộ đội xoay chiếc hộp trên tay tìm dấu tích. Rồi lắc đầu.
Chia tay nhau Thương lại hẹn, anh nhớ xuống với bản em nhé.
Tại thương quá thành yêu. Anh bộ đội đi từ trên đường biên xuống giữ đúng lời hẹn đã trở lại và sau khi chiến tranh kết thúc hai người nên vợ nên chồng.
*
Hình ảnh chiếc hộp gỗ nhỏ luôn hiển hiện trong tâm trí Bình, ngay cả nhưng lúc phải vật vã trong cơn mê sảng hay những lúc căng mình cưỡng lại đau đớn của vết thương. Cô bé ấy có làn da trắng mịn màng, đôi mắt lúng liếng như giọt sương làm xao xuyến lòng Bình, còn chiếc hộp nhỏ trên tay cô ấy khiến Bình day dứt. Chiếc hộp ấy có phải là kỷ vật đồng đội Thành nói tới?
Lệnh hành quân tiếp cận trận địa địch. Mưa xối xả. Nước mưa chảy tràn trên mặt, vuột không kịp. Trước có ai, sau có ai không nhìn thấy, tối bít chặt. Mở mắt cũng chẳng khác nào nhắm. Tiếng thở mệt nhọc của mình cũng không nghe thấy bởi tiếng nổ uỳnh oàng triền miên. Vũ khí, đạn dược đã đè nặng trên lưng lại phải gồng mình vượt qua khối đen đặc của bóng tối. Tay buốt cứng vì nước mưa ngấm vào những vết trầy xước do đá cứa xót như sát muối. Cứ thẳng trước mặt mà bước. Phía trước là bước chân phải leo lên. Mỗi lần bấm chân leo qua gờ đá, các khớp xương đau nhối như bị bẻ gãy. Xung quanh, chớp của các loại hỏa lực bắn ra nhay nháy như chớp dông, những đường đạn lửa đan nhằng nhịt như tấm lưới rối. Tiếng rít reo réo, tiếng nổ ục uỳnh bóp chặt trời đêm.
Thoảng trong tiếng nổ thấy tiếng thở gấp ngay sau, Bình quay xuống hỏi:
– Ai đấy?
– Tôi, Thành đây.
– Sao đi chậm thế?
– Bình “còng” hả. Nghỉ tí đã, không thở được.
Thành ngồi vật ra, dựa lưng vào vách đá, thở rít lên như bị nghẹn. Có lẽ vẻ mặt Thành phải nhăn nhó đau đớn lắm, Bình cảm nhận được qua tiếng rên rỉ nén đau.
– Vừa ra viện, còn mệt lắm hả? – Bình ngồi xuống cạnh hỏi thăm dò.
– Bị sốt rét, bốn hai độ, lên cơn co giật, bây giờ vẫn thấy gai gai người. Dưới huấn luyện leo núi quen rồi mà hôm nay các cơ như là nhão ra, không nhấc nổi chân. Hôm nọ qua bản xin được nắm cải mèo, nhai sống mà sao ngon thế, tỉnh người.
– Này, tôi hỏi thật, sao không nằm lán lại viện chờ đơn vị lên đã. Trận này chẳng biết thế nào!
– ….
– Lúc qua suối nhìn hai đứa dính cối, run quá. Tôi lui đây.
– Thảo nào, ông khỏe thế lại đi cuối. Có lúc tôi phải bò mới lên được, đầu gối toét hết đây này. Bây giờ không lui được đâu!
– Hướng này đang yên. Hình như mình bắn nghi binh vào 300, hút hỏa lực của nó về bên ấy.
Đánh cửa mở, lại được phân bắn B41 nữa, lúc đường đạn, có lẽ 12 ly 7 găm chiu chíu vào vách đá ngay gần khiến Bình hoảng. Không biết có ai bị sao, tối quá không nhìn thấy gì. Phải nấp thôi, quyết vậy Bình lặng lẽ đi chậm lại, chờ cho đơn vị vượt lên rồi sẽ tìm một hốc đá nào đó thật chắc chắn nấp vào. Tốt nhất là trở lại bên kia suối, lúc kéo hai đồng đội dính cối lên bờ, Bình đã thấy một khe đá có thể nép mình vào được. Nhưng chẳng biết run rủi thế nào lại gặp anh ta. Ai mà không sợ chết.
– Cố lên, đạn tránh mình chứ mình tránh thế nào được đạn, quay lại cũng có khi bị.
Thành vịn vào Bình nặng nhọc đứng lên.
Giọng nói dửng dưng, vô tư cùng cái níu tay của Thành đã kéo Bình vững tâm leo lên tiếp.
– Sắp đến giờ G chưa B trưởng?
Bình hỏi khi nhận ra người vừa lom khom đến.
– Bình “còng” hả. Cao như cái sào, chẳng giống ai. Sắp đến giờ rồi đấy, về vị trí!
Thành nằm cạnh giục:
– B41 lên trước đi!
Những tiếng nổ khủng khiếp, gần lắm, có lẽ hỏa lực của mình bắn phá trận địa địch. Đất đá rào rào trút xuống. Bình nhoài người ra khỏi hốc đá, định nhoai lên thì một quả đạn nổ gần, đất đá đổ ập lên người khiến Bình nằm bẹp xuống. Không thể lên được, Bình lui lại hốc đá, run.
– Có lẽ là DK nó bắn. – Thành ngồi dịch vào Bình: – Tôi cũng thấy run. Lúc này mà được ôm kỷ vật của mẹ tôi tặng lúc nhập ngũ cũng đỡ sợ.
– Để ở cứ à?
– Tôi gửi rồi.
Uỳnh! Uỳnh! Tiếng bộc phá nổ gần, dậy đất. Tiếng súng bộ binh các loại cùng tiếng hô xung phong rộ lên, rất gần.
Hướng của đơn vị đảm nhiệm vẫn chưa có động tĩnh gì.
Có tiếng gọi lan xuống:
– Kíp bị hỏng. B41 đâu, bắn vào bộc phá!
Mệnh lệnh trở nên gay gắt hơn:
– B41 đâu rồi!
Bình nén thở, muốn bước ra khỏi hốc đá mà không được, chân tay quýnh quáng. Run.
Thành giằng khẩu B41 trên tay Bình, cầm thêm một quả đạn nữa chạy lên phía trước.
– Có biết bắn không!? Tối thế nhìn thấy gì mà bắn!
Bình gọi theo nhưng không thấy Thành trả lời.
“Bùng… Poành!” … “Bùng… Poành!” Uỳnh! Uỳnh! Hai tiếng nổ của quả đạn B41 nối tiếp là tiếng của bộc phá. Quả núi như sập xuống.
Trận đánh kết thúc.
Bình âm thầm khóc. Thành ơi! Một mảnh cơ thể của đồng đội để còn vái nhau một vái mà cũng không tìm thấy là sao!
Tháng bẩy.
Một năm sau Bình mới có dịp trở lại tìm Thương.
Cô ấy vẫn đứng đúng chỗ hơn một năm trước Bình đã gặp, vẫn chiếc hộp nhỏ trên tay.
– Anh ấy không xuống được đâu!
– Sao anh biết?
– Anh ấy ở cùng đơn vị mà.
– Không phải đâu, anh ấy sẽ quay lại, anh ấy hẹn thế rồi.
Cô ấy khảng định khiến Bình thấy ân hận. Sao lúc ấy không hỏi kỹ Thành, kỷ vật là gì, gửi cho ai và cả chi tiết ăn rau cải sống nữa. Cô ấy nói, cho anh bộ đội cả ôm to vậy mà về tới đơn vị Thành chỉ còn một tầu. Biết là trên đường đi sẽ bị các đơn vị khác xin hết. Người lính chẳng tiếc nhau thứ gì. Vừa mong rằng chủ nhân chiếc hộp không phải là Thành, như vậy vẫn còn hy vọng người ấy sẽ bình an trở về nhận lại. Nhưng cũng mong chủ nhân chiếc hộp là Thành, có vậy Thành vẫn để lại dấu tích trên đời.
– Thế anh bộ đội ấy nhìn thế nào, cao hay thấp, đẹp trai không? – Bình hỏi cố và hy vọng.
Nhưng:
– Không thấy rõ, tại mù giời quá, tại thương quá nước mắt chẩy ra nhiều không nhìn được đâu.
*
Tháng bẩy.
Tiếng súng đã ngừng. Xuất ngũ được một năm Bình quay trở lại tìm Thương. Đi từ bến xe về tới bản hai vai áo ướt đẫm, nước chảy ròng trên mặt, lạnh tê vì sương mù. Có phải cô ấy đang đứng ở cổng nhà kia không? Mới có ba năm không gặp mà cô bé đã trổ mã thành thiếu nữ đẹp mê hồn. Bình lúng túng hỏi:
– Thương à? Nhớ anh không?
– Anh Bình! Mong anh chui bụi tre trở về nhiều đấy, như mong anh có chiếc hộp này thôi.
Thương đưa chiếc hộp ra trước mặt Bình.
– Mấy năm nay em vẫn chờ à? Anh ấy không xuống được đâu.
– Xuống mà! Giống như anh Bình cũng xuống đấy thôi.
Thương nói rồi mắt hướng lên đường biên chờ đợi.
Bỗng nhiên Bình nghe thấy tiếng tính tẩu réo rắt như tiếng suối, cùng tiếng hát lúc da diết, xót xa lúc lại bay bổng như tiếng của đại ngàn. Tiếng hát dẫn dụ Bình bước lên ngôi nhà sàn. Ánh lửa bập bùng, ấm áp. Những người ngồi lặng sát bên nhau, ánh mắt buồn thương. Bình ngờ ngợ, chẳng lẽ là đám tang. Bình hỏi người đứng cạnh: “Nhà làm đám tang à?”. “Làm lễ then mà. Làm then cầu an cho bộ đội hy sinh, cho dân bản”. Bình xúc động, gương mặt đồng đội Thành qua ánh chớp, bình thản, an nhiên hiện lên. Thương đứng cạnh, nắm chặt tay Bình. Hai bàn tay đan vào nhau, run run.
“Cá nghe chết chín đoạn suối. Chuột nghe chết mười quãng rừng. Trai gái nghe chết chín cõi lòng”, người Tày nói ai mê then cũng thấy thế mà. Lòng em muốn anh ở lại đây để nghe then cùng, đồng ý đi anh. Con gái dân tộc nghĩ gì nói ra vậy, không giấu được lòng. Then cùng em bỏ bùa anh rồi, anh không về xuôi đâu, ở lại cùng em chờ anh Thành xuống. Thế là Bình ở lại, nên vợ nên chồng với Thương.
*
Hai vợ chồng Bình hồi hộp xen lẫn lo lắng suốt chặng đường từ trên rừng xuống dưới biển tìm về quê Thành. Lần đầu tiên thấy biển, ánh mắt kia của vợ cũng giống như Bình lần đầu tiên thấy mây bay đỉnh núi, lạ lẫm và mê dại. Xã đảo thưa vắng, tìm được một ngôi nhà khó hơn ở bản. Vợ chồng Bình đến trụ sở ủy ban xã hỏi thăm:
– Cháu cùng đơn vị với Thành. Anh ấy đi bộ đội năm tám tư.
– Năm ấy, cả xã chỉ có mỗi thằng Thành đi bộ đội. Mà thằng Thành hy sinh, có giấy báo tử nhưng bị cháy cùng trụ sở xã rồi. – Chủ tịch xã sau khi lục tìm danh sách lưu trữ trả lời Bình.
– Dạ, nhà anh ấy ở đâu ạ?
– Nhà ấy là dân về đây khai hoang nhưng không theo được nghề thủy sản nên lại trở về quê, lâu rồi, trước khi có giấy báo tử của thằng Thành.
Thương đưa chiếc hộp cho chủ tịch xã, hỏi:
– Nhà anh Thành có làm chiếc hộp như thế này không ạ?
Chủ tịch xã xem xét tỉ mỉ chiếc hộp rồi nói:
– Gỗ kim giao ở đây nhiều lắm, nhưng không có nhà nào làm nghề mộc. Nhà ấy ở gần nhà, tôi nhớ không nhầm thì không thấy làm.
Thành ơi! Tôi chỉ cần một dấu tích của đồng đội hiện hữu trên trần thế này để vái nhau một vái thôi mà sao khó thế.
Gia đình Thành không về quê mà đi vùng kinh tế mới khác mãi tận Tây Nguyên.
Tây Nguyên thì rộng lớn, không biết địa chỉ cụ thể chỗ nào và đường xá đi lại khó khăn, thông cảm cho tôi, đồng đội nhé. Người mẹ nào cũng lo từng ly từng tí cho con mình để bước vào cuộc sống tự lập. Người chiến sĩ nào cũng trân trọng những kỷ vật của người thân khi phải xa gia đình. Đến thời gian này không có ai về nhận lại chiếc hộp thì sẽ không về được nữa đâu. Chiếc hộp sẽ là kỷ vật chung của các đồng đội cùng mặt trận thôi. Biết là thế nhưng tôi cũng như Thương, lúc nào cũng ngong ngóng trông về đường biên, hy vọng.
Đúng là Thành cùng đơn vị, quê ở xã đảo ấy, một đồng đội từ Tây nguyên ra thăm lại chiến trường xưa khảng định chắc chắn. Gần bốn mươi năm mới tìm được, các đồng đội cùng Bình lặn lội vào Tây Nguyên tìm gia đình Thành. Ai cũng vui, háo hức. Bố mẹ Thành mất đã lâu, đón tiếp đoàn là người em trai Thành. Sau khi “thẩm tra”, tất cả các thông tin đều trùng khớp ai cũng vui đến nghẹn lòng. Tưởng chừng đã hết hy vọng được “gặp lại” đồng đội thì nay toại nguyện. Bình rưng rưng hỏi Công, em Thành:
– Ban thờ đâu để anh vái anh ấy một lần?
– Nhà em để ban thờ chung. Đây ạ.
Bình:
– Đây là ảnh bố mẹ phải không. Thế ảnh của anh Thành đâu?
Công:
– Ngày xưa ở đảo không có hiệu ảnh.
Bình:
– Thế, bằng Tổ quốc ghi công treo ở đâu?
Công:
– Nhà em chưa làm.
Bình:
– Sao thế?
Công:
– Có người quen ở xã đảo vào đây báo tin, lúc ấy gia đình em mới biết anh Thành hy sinh chưa tìm thấy thi thể, giấy báo tử bị cháy mất. Không có giấy báo tử không làm được bằng Tổ quốc ghi công. Ngày ấy đi lại khó khăn, thủ tục rườm rà nên bố em bảo, anh ấy dấn thân chẳng nghĩ mình hy sinh sẽ để lại chút chế độ cho gia đình thì mình vất vả làm gì.
Những đồng đội ôm vai nhau khóc. Chúng tôi có người cơ thể bị khuyết, có người chịu đựng đau đớn của thương tật nhưng vẫn được hít thở khí trời, được truyền hơi ấm tình đồng đội sang nhau, hạnh phúc lắm. Số phận đồng đội long đong thế, một dấu tích nhỏ để lại trên đời cũng không còn.
Còn chứ! Hy vọng chiếc hộp là của anh ấy.
– Có phải chiếc hộp này là của mẹ anh ấy trao lúc nhập ngũ?
– Anh ấy đi bộ đội mẹ mới sinh em. Cũng không thấy mẹ nói gì về chiếc hộp, bố cũng không thấy đóng đồ mộc bao giờ. Chiếc hộp đẹp thế này thì tay nghề phải khéo mới làm được.
*
Hai năm ngóng chờ cùng hy vọng. Chiếc hộp này có thể không phải của đồng đội Thành nhưng nhìn những đoàn người nườm nượp trở về miền ký ức vợ chồng ông Bình cũng thấy nhẹ lòng. Hai năm nay, bà Thương không chỉ trông lên phía đường biên mà còn ngóng về xuôi, nhìn tận mặt từng người đi qua. Ngóng chờ chú Công mang tin tức tới.
– Chú ấy kìa!
Là chú ấy mệt mỏi sau chặng đường dài chứ không phải buồn, hai vợ chồng ông Bình nhìn nhau muốn nói vậy.
– Ngồi lại gần bếp lửa cho ấm. Đường xá xa xôi quá.
– Vâng. Trên đường tới đây, em nghe mọi người nói, năm nào vào mấy ngày này ở đây cũng mưa à. Nhìn mấy ngọn núi bị mây phủ như bị đè sụn xuống. Anh Thành em ở ngọn núi nào.
Ông Bình châm lửa vào nõ điếu, tay lập cập. Rồi ông định rít một hơi thuốc lào thật dài để giữ bình tĩnh nhưng cứ như bị cái gì đó chặn nghẹn ngang họng. Ông đành buông chiếc điếu, hồi hộp hỏi ông Công:
– Công việc đến đâu rồi?
Bà Thương nhắc chồng:
– Để chú ấy nghỉ ngơi đã rồi hãy hỏi được không.
Ông Công hơ tay gần bếp lửa, cố nén nỗi buồn trong lòng không để lộ ra qua ánh mắt, trầm giọng nói:
– Em mới nhận được công văn phúc đáp tháng trước. Không được anh ạ.
– Sao!?
– Người ta trả lời, đã xác minh xong. Trong sổ gốc lưu danh sách các tử sĩ không có tên Nguyễn Văn Thành, số hiệu đơn vị như thế, hy sinh vào ngày tháng năm ấy cho nên không đủ điều kiện làm chế độ liệt sĩ.
Năm tháng cuộc đời đã đè đủ nặng lên đôi vai, giờ thêm một nỗi buồn nữa cũng chỉ khiến ông bà Bình ngồi lặng như hai hòn đá tảng.
– Anh chị đừng buồn, gia đình em cũng không buồn đâu. Thời gian đã bốn mươi năm, vậy mà các anh vẫn trở lại thăm đồng đội đông thế này em thấy ấm lòng lắm, chắc anh Thành cũng mãn nguyện.
Tôi cũng mãn nguyện lắm chú Công à. Hôm ấy, năm giờ sáng trời còn tối lắm, bàn tay giơ trước mặt không thấy mà sao hai quả đạn của anh Thành lại trúng đích. Cửa mở đã thông. Anh Thành bắn thế nào? Ai biết trả lời hộ tôi với. Cả trung đội đánh cửa mở chỉ còn mình tôi xuống được. Tại tôi hèn nhát nấp ở phía sau, không biết hết được đồng đội đánh cửa mở thế nào. Chú Công, tôi nói điều này không biết chú có tin. Là linh giác người lính đấy. Lúc hành quân vào, con đường thì lần đầu đặt chân tới, trước có ai sau có ai không nhìn thấy, chỉ chệch một bước chân thôi là đi ra ngoài con đường trinh sát đã vạch sẵn, là đi vào bãi mìn, vậy mà khi chúng tôi dừng lại để nghỉ chặp nữa thì cũng là nơi đơn vị dừng lại ém quân. Linh giác của người lính dẫn đường đấy.
Thương ơi, chiếc hộp ấy đã chứa đựng tình cảm của người mẹ, bốn mươi năm nay chứa đựng thêm tình cảm của em nữa. Nếu là của anh Thành thật thì chú Công sẽ chẳng nỡ mang về gia đình đâu. Nhìn dòng sông màu xanh chảy ngược lên đường biên kia, tình cảm đồng đội đang dồn về đấy…
– Hai anh em ngồi chơi, tôi đi ra ngoài cổng, chờ. Nhỡ anh ấy đi qua lại không nhìn thấy chiếc hộp.
– Bà khoác thêm chiếc áo vào, lạnh đấy.