Ngoài khơi miền đất hứa – Tiểu thuyết của Nguyễn Quang Thân

13

 

Tuấn đã sắm được một cái ba lô con cóc. Anh mua với giá rẻ của một bà đồng nát. Trong cái thúng của bà ta có một nửa thành phố, từ kinh Phật đến ốc vít máy bay. Tuấn rất vừa ý với chiếc ba lô. Màu chưa đến nỗi quá nhạt, trông không có vẻ tồi tàn và khả nghi. Anh lộn trái những cái túi con con vào trong, những cái hốc nhỏ của đời dân du mục, có thể đựng hộp xà phòng, bàn chải đánh răng, cuốn sổ ghi địa chỉ. Anh phân vân không biết có nên mua một cuốn sổ nhỏ để ghi nhật ký? ở trong tù anh học được thói quen nhớ vào óc những điều trước đây phải ghi vào sổ. Anh đã quen với lối sống không cần đến giấy tờ, khác hẳn với trước đây. Từ nay, hẵng tạm quên sổ sách, công thức, ngày và thứ, thời gian biểu, tóm lại là một loạt những biểu tượng của nền văn minh đã bắt chặt vào anh như những con đỉa và tạo thành thói quen. Từ đây anh sẽ hồng hoang trở lại. Người tiền sử chỉ khác với anh ở chỗ họ không thèm nhặt những thứ anh đang ao ước, thèm khát, đó là những hạt kim loại màu vàng. ở trong cát chắc chúng có màu đen hay màu nâu hay màu cánh gián. Anh tưởng tượng anh sẽ tìm thấy rất nhiều thứ trong những hạt bụi màu ấy. Con đường để đi tới mục đích. Để thoát khỏi lệ thuộc, để trả thù những khinh miệt, hằn học. Và để sống thành người tử tế, nhân ái. Lòng nhân ái cũng cần vàng bảo đảm. Anh chua chát nhận ra mình đã học được bài học đó trong tám tháng vừa qua.

Anh rót nước sôi vào bình trà, ngồi thừ ra. Anh không biết làm gì nữa. Vì chẳng còn việc gì để làm. Anh lấy một cái chén nhưng không rót nước vào chén vì anh muốn suy nghĩ hơn là uống. Tư duy anh được giải phóng hoàn toàn. Bỗng một cảm xúc làm tim anh đập mạnh. Anh nhớ tới lá thư định viết. Anh nghĩ về lá thư đó từ rất lâu, hồi còn bị giam giữ. Lúc đó anh muốn viết lắm, bởi vì trước sau gì thì anh cũng phải viết và gửi nó đi. Nhưng hồi đó trong tay anh chẳng có bút mà cũng không có giấy. Những con rệp lại săn đuổi anh hoài, ngồi hay nằm chúng đều không buông tha anh. Thói quen mới do hoàn cảnh tạo nên đã giúp anh nhập tâm bức thư ấy. Giờ đây, trong căn buồng vắng lặng, cảm hứng kéo anh trở lại với bức thư. Anh lại bàn viết của Thảo, rút một tờ giấy Thảo dùng để viết tiểu thuyết. Anh viết, viết rất nhanh vì những dòng chữ này anh đã nhập tâm từ những ngày ở trong tù.

 

Chi ơi,

Cuộc ra đi của anh đã được số phận định trước vì anh còn biết làm gì nữa ở thành phố này nếu không ra đi. Anh buồn, nhưng được an ủi vì anh đã giải thoát cho em một cái nhục. Trước sau rồi mọi người cũng biết em đã phản bội một người chồng có địa vị cao sang như thế để đi yêu một thằng tù vừa được thả ra, nghèo xác, rách rưới và thất nghiệp. Có thể anh sẽ được minh oan, nhưng ở xứ này, với những định kiến đạo đức giả dối, em biết rồi đó, anh coi như đã lĩnh án trọn đời nếu anh không có một hành động mạnh mẽ và dứt khoát để tự cứu lấy đời anh.

Nhiều lúc anh tự hỏi: bi kịch của đời anh và đời em nữa, đã bắt đầu từ đâu? Kinh nghiệm sống xót xa đã giúp anh giải đáp được một phần câu hỏi đó. Chính vì anh đã ỉ lại, đã quá tin vào một số người trong lý thuyết thì hoàn hảo tuyệt vời nhưng lại quá tồi tệ trong thực tế. Lòng tin ngây thơ đó đã tước mất của anh khả năng tự vệ vốn rất mạnh ở bất kỳ sinh vật nào. Đến bây giờ anh bỗng thấy Thục có lý hơn chúng ta, tuy rằng giờ phút này, trước kia cũng như sau này có lẽ không bao giờ anh yêu và thân được với anh ấy. Vì sao vậy? Chắc em cũng đồng ý với anh, vì Thục không hề tin vào những giả thiết (dù anh ấy có nói ra điều đó không, hay nói ngược lại) mà tin vào hiện thực, chuẩn bị chu đáo để thích nghi với hiện thực mà anh ấy hiểu rất rõ và đánh giá rất đúng. Còn chúng ta? Chúng ta tưởng là trời sẽ nắng, chúng ta không mang nón hay áo đi mưa, kết quả là ướt từ đầu đến chân như chuột. Anh đã bị bóc lột quá nhiều, những gì đầu óc anh nghĩ ra có thể mang lại cho mọi người bao hạnh phúc và của cải thì chỉ dùng để nuôi béo những thằng ngu dốt vẫn cưỡi lên lưng, lên đầu chúng ta để thăng tiến vô hạn độ vào cái hệ thống quan liêu mà đất nước đang cần gột bỏ đi như con trâu hiền lành rùng mình, vẫy đuôi để tung hê những con vắt con đỉa đang bám vào thân thể mình. Đất nước đang làm chuyện đó và đất nước sẽ được cứu vớt nếu cải tạo được hệ thống quan liêu tệ hại đó.

Anh rất tiếc là với vị thế của mình hiện nay, anh đã bị tước mất điều kiện để tham gia vào quá trình đang xảy ra một cách cực nhọc, vất vả đó. Anh chỉ còn một cách duy nhất có lý là tìm vận may để thách thức số phận. Đừng lên án anh đánh mất lòng tin. Nếu mất niềm tin thì anh đã treo cổ lên rồi. Cho đến giờ phút này anh vẫn cầu mong đừng phải uống cạn chén đắng trước khi vác cây thánh giá ở địa ngục đãi vàng. Nhưng anh biết là không thể được. Anh phải đi để có ngày trở về, anh đau đớn xa em để có ngày trở về, được hoà nhập với cuộc sống đang đổi mới của đất nước, được hoà nhập với em, với tình yêu bất diệt của em.

Em yêu mãi mãi, bây giờ thì em đã hiểu vì sao anh lại có can đảm xa em.

Tuấn gấp lá thư, cho vào túi. Anh sẽ gửi nó qua đường bưu điện khi có dịp, ở một địa điểm anh chưa biết. Anh nhẩm trong đầu vài việc cần kíp phải làm đối với Lanh, cho cái ba lô vào góc nhà rồi ra đường.

 

 

14

 

Thảo yên lặng nhìn Hương.

Dù Thục và Tuấn nữa, dù một nửa thành phố này nghĩ đến Hương như một ca sĩ nghiệp dư nổi tiếng, có sức hấp dẫn bí ẩn, như Thục có lần nói, “không thoát nổi” thì với Thảo, Hương vẫn là cô gái bình thường. Tình thương của anh làm mất hào quang có thật hay chỉ do tưởng tượng ở cô gái. Anh thương Hương như cô em út của vợ anh, vì anh không có em gái nên anh cảm nhận được tình thương dịu dàng đó trong lòng mình. Anh biết rất rõ, vài năm nay, khi còn ở một địa vị thấp hơn bây giờ rất nhiều, Thục đã say mê cô gái. Anh chưa hề nghĩ Thục là một người trung thực. Nhưng anh tin sự say mê đã làm những người khác ngạc nhiên và nghi ngờ. Anh tin mà vẫn không giải thích nổi vì sao một người vừa giàu sang, đẹp trai, có địa vị như Thục lại có thể theo đuổi dai dẳng, chân thành dù không có kết quả một cô gái nghèo, có nhan sắc bình thường như Hương.

Tuấn đã kể cho Thảo nghe, chính Thục là người bỏ ra nhiều công phu để lần theo Hương ngay sau hôm thấy Hương xuất hiện trên sân khấu nghiệp dư lần nọ. Tuấn đã theo Thục tìm đến nhà Hương và điều duy nhất họ nhìn thấy là cảnh nghèo khó cùng cực của cô gái. Một cái nghèo vô phương cứu chữa và bất hạnh. Bà mẹ mù, thích ăn ngon mà lại ăn rất khoẻ. Trước đây, hồi bố Hương còn sống, bà chưa mù, buôn bán phát đạt, bà ăn uống như những người trung lưu. Bây giờ bà nhớ lại, bà thèm, bà đòi ăn những món ăn kỷ niệm đó mà không hề quan tâm đến giá, lương, tiền. Một cô em gái còn đi học. Nhà ổ chuột. Mùa hè mà phải thắp đèn dầu vào ban ngày. Điện chỉ có từ chín giờ đêm đến bốn giờ sáng. Những buổi tối không bị cúp thì chỉ đủ nhìn thấy được sợi dây tóc trong bóng đèn. Lương của Hương vào loại cao. Nhà máy lời lãi khá. Dù vậy, để cho ba người ăn thì chỉ được mươi ngày. Đó là chưa kể “những món ăn theo thực đơn hồi ức” mà bà mẹ mù vẫn đòi hỏi đứa con gái có hiếu.

– Anh hỏi em làm sao sống tiếp những ngày còn lại à? – có lần Hương nói với Thảo, đôi mắt tinh nghịch như chính cô đang sắp ra một câu đố hiểm hóc – em ăn cắp. Đúng như thế. Một hộp thịt loại nhỏ đưa bán vỉa hè được số tiền bằng hai ngày lương. Mỗi tháng nhà máy sản xuất hàng triệu hộp, có ăn thua gì. Tất nhiên bọn em phải chia cho người gác cổng. Anh ta cho tay vào túi xách của chúng em rồi khoắng, rồi quát mắng ầm ĩ. Và anh ta biết chỗ này đáng giá bao nhiêu tiền. Không giấu anh ta được. Tối đến, bọn em đến nhà anh ta nộp tiền đò ngang.

Nhưng không phải tháng nào cũng suôn chảy. Có thời kỳ nhà máy làm đồ hộp phải nợ lương công nhân. Đến kỳ lĩnh lương, trước sân văn phòng chỉ có hàng chữ viết bằng phấn lên cái bảng đen láng xi măng: “Chưa có lương, bao giờ có tài vụ sẽ báo”. Những ngày đó thủ quỹ đang ngạt thở trước ghi sê ngân hàng. Nhân viên ngân hàng đã chán chê đồ hộp, họ đang thèm cua bể và thế là tiền mặt chạy về các công ty thủy sản. Trong khi đó bà mẹ mù vẫn đòi ăn ngon hơn. Đứa em lớn, ăn nhiều hơn, mặc đẹp hơn. Lĩnh được lương, đi đong gạo thì cái bảng trước cửa hàng gạo lại có hàng chữ phấn: “Gạo chưa về, xin bà con thông cảm”. Hương ra chợ, giá gạo lên vọt. Cũng đành phải đong một ít. Người ta đồn là tàu biển chở gạo trong Nam ra bị đắm, thủy thủ bán bớt gạo dọc đường, cho nước vào để phi tang. Ôi, những chữ phấn viết trên bảng văn phòng nhà máy và các quầy hàng. Cứ mỗi lần nhìn thấy những hàng chữ ấy Hương lại lạnh sống lưng. Gánh nặng, đường xa đè lên đôi vai thanh xuân của cô, tháng này, tháng khác.

Rồi mỗi lần nhà máy thay bảo vệ, gặp lúc quẩn, không “tiêu cực” được, đói mất mấy ngày. Nhưng bảo vệ cũng đói.

– Thế là chúng em lại ăn cắp! Chỉ cần vài ngày là mua được bảo vệ thôi. Họ cũng dựa vào chúng em mà sống.

Hương không nói chúng em chôm, chúng em mổ. Những tiếng có vẻ nhà nghề quá. Hương nói: chúng em ăn cắp. Như việc đó là đương nhiên. Là lương thiện, chẳng có gì xấu hổ.

Đã có vài đoàn nhạc nhẹ của thành phố và tỉnh bạn mời Hương vào đoàn. Nhưng Hương không bỏ mẹ đi đâu được. Vả lại, đi hát thì ngoài lương tháng ra, biết kiếm thêm vào đâu? Hương muốn lên sân khấu lắm, thèm lắm. Nhưng biết làm thế nào? Cô chỉ tham gia cùng đội văn nghệ nghiệp dư của nhà máy đi dự hội diễn của ngành, của các đoàn văn nghệ công nhân. Lần nào cũng có giấy khen hay huy chương mang về, chỉ còn biết dán lên bức tường ẩm để che những lớp vữa mốc. Những chuyến biểu diễn nghiệp dư ấy làm Hương nổi tiếng hơn, nhưng dù sao thì cũng là ca sĩ nghiệp dư, tủ một vài ca khúc chính trị thường do anh nhạc sĩ trẻ làm ở phòng văn hóa quần chúng của nhà máy sáng tác.

Không phải trước đây mà sau này, khi đã trở thành nhân vật quan trọng, có vị trí cao hơn trong thành phố, Thục vẫn tìm mọi cách để xem Hương biểu diễn. Lúc thì anh đến dự khai mạc hay tổng kết, làm một nhân vật long trọng. Lúc anh đưa xe máy đến rủ Thảo đi cùng, hai người tránh mặt người quen, ngồi lẩn vào những hàng ghế phía cuối. Thảo quan sát những rung động trên khuôn mặt bụ bẫm của Thục, nhiều lúc Thục tái xám mặt mũi như anh bị người ca sĩ trên sân khấu thu mất hồn. Thảo thương hại bạn, người bạn anh ít ưa vì tính cách quá mạnh mẽ, sắt đá và nhiều lúc lạnh lùng đến tàn bạo. Con người đó đang run rẩy bên cạnh anh, đau khổ vì một tình yêu Thảo không thể mảy may nghi ngờ. Thảo ngạc nhiên, dù là một nhà văn, anh cũng không hiểu nổi vì sao, trong khi Thục đã có một người vợ tuyệt vời như Chi, trong khi, theo những lời đồn đại và tán tụng, Thục là một người đầy hấp dẫn đối với những cô gái trẻ đẹp. Anh cũng đâu phải là một nhà đạo đức và giới viên chức đều truyền tai nhau những chuyện bồ bịch lăng nhăng của anh với những cô gái đẹp nổi tiếng, đôi khi với cả những bà mệnh phụ đạo cao đức trọng. Vậy thì chuyện anh say mê Hương một cách hồn nhiên chỉ có thể giải thích bằng một tình yêu chân thành, tình yêu đơn phương từng dày vò trái tim anh không ít. Còn Hương? Câu trả lời đơn giản hơn nhiều. Hương không yêu Thục, không rung động mảy may trước những lời tỏ tình của anh. Trước đây, vì Thục có một địa vị quá cao sang so với Hương. Sau này, vì Thục đã có vợ nên Hương không thể tin vào những tình cảm mà Thảo biết là rất chân thành của Thục. Hương lẩn trốn như một cô gái nghèo có nhân cách. Thảo và những người quen biết Hương đánh giá rất cao nhân cách ấy.

Nhưng chính Thảo cũng như nhiều bạn bè của Hương làm sao hiểu nổi được cuộc sống bấp bênh và đau khổ của một cô gái có gánh nặng gia đình như Hương? Cô đã cố gắng giữ gìn một bề ngoài thanh sạch, nết na với chiếc áo phông duy nhất để diện vào mùa hè, một cái áo lông Đức vào mùa đông. Nhưng cuộc sống của Hương là một sợi dây thép căng trên hai bờ vực thẳm và cô phải vất vả lần từng bước trên đó để khỏi rơi xuống đáy.

Huy, chàng trai nghèo, bụi bặm và năng động đang bơi lội trên biển đời, đang dấn thân không nguyên tắc, không tính toán chỉ với mục đích kiếm sống, đã có dịp hiểu được tận đáy cuộc sống của cô gái. Có thể là do tình cờ, cũng có thể nhờ sự đưa đẩy của số phận? Chính Huy đã một lần cứu Hương “một bàn thua trông thấy” – như nó nói một cách hồn nhiên – khi Hương sắp rơi xuống vực thẳm.

Bà mẹ Hương bị mù vì bệnh thiên đầu thống cách đây nhiều năm, một hôm đổ bệnh rất nặng. Đầu bà tự nhiên đau như búa bổ. Hương đưa mẹ đi bệnh viện cấp cứu. Bác sĩ cho biết phải mổ lại con mắt trái cho bà để làm dứt cơn đau. Ca mổ đòi hỏi nhiều thứ. Tuy bệnh viện không chật hẹp gì đối với một bà già bị mù nghèo khổ, nhưng không thể tiến hành ca mổ nếu không có tiền, một số tiền khá lớn gia đình bệnh nhân phải đóng góp. Hương kiếm đâu ra số tiền ấy bây giờ? Trên đường từ bệnh viện về cô như muốn phát điên lên. Cô hy vọng về nhà sẽ có một phép lạ nào đó hiện ra, cô sẽ có đủ số tiền đã hứa với bác sĩ để mua những thứ cần thiết theo giá chợ đen cắt cổ. Hồi tỉnh lại, Hương biết về nhà cũng chẳng được gì, làm gì có phép lạ hão huyền ấy. Cô đi lang thang, như những người vô vọng vẫn lang thang trên đường phố mà không thể tìm ra lối thoát cho sự tồn tại của chính mình. Hương đã gặp Mai, một đứa bạn gái hồi còn ở trường phổ thông, đẹp, táo bạo và tốt bụng. Hương rất mừng vì gặp được người chia sẻ, nhưng cô không tin là Mai sẽ có phép lạ. “Thế à? – Mai nói – đi với tao một lúc”. Hương ngần ngừ: “Đi đâu bây giờ Mai?”. Mai thản nhiên: “Tao không hứa hẹn gì với mày cả. Nhưng mày đang cần tiền phải không? Có một lần tao cũng cần tiền như mày, tao không biết giết đứa nào để có tiền và thế là tao lang thang trên đường phố”.

Được một đoạn, Mai hỏi:

– Này, tao hỏi thật, mày có còn không đấy?

Mãi một lúc Hương mới hiểu ra. Cô ấp úng:

– Đã ai làm gì đâu mà chẳng còn.

Mai đứng lại:

– Chắc chứ?

– Chắc! Của tao mà tao không biết à?

Hai đứa thả bộ một đoạn dưới hàng phượng. Bóng tối rách rưới phủ lên vỉa hè, lốm đốm những vệt sáng điện đường. Mai bảo:

– Đứng đây với tao một chút. Tao chờ một thằng. May ra nó sẽ cứu được mày.

Một lúc lâu, không thấy ai đến. Mai nói:

– Hôm nay thế là hỏng rồi. Nó không đến. Để mai tao hẹn lại nó vậy. Thằng này đang cần một đứa như mày. Số tiền mày cần lớn quá, mà chưa chắc đã đủ đâu. Nửa chừng chúng nó còn vòi vĩnh thêm nữa. Nhưng thằng này thì dầm lắm. Mày cứ yên tâm. Mày biết không, năm ngoái tao vào Sài Gòn, đang bơ vơ thì gặp con Thuỷ, mày nhớ nó chứ? Nó dẫn tao xuống Chợ Lớn bán trinh. Bọn ba Tàu nó mua đắt lắm chứ không rẻ như ngoài này đâu. Năm chỉ đấy. Tao liều từ dạo ấy.

Hương dần dần hiểu ra. Choáng váng một vài giây. Giá mà có nửa chỉ, nửa chỉ thôi cũng được, có ngay bây giờ? Nhưng chuyện ấy nó ra làm sao? Làm sao?

– Đêm mai, thế nào tao cũng giúp mày được. Bà cụ chưa chết ngay đâu mà lo. Bảo bọn bác sĩ đợi cho một tí. Còn bây giờ, may ra tao sẽ giúp mày tí tỉnh. Có một thằng khứa đang ghếch xe máy ở gốc cây kia. Đợi tao một tẹo, Hương!

Mai đến chỗ người đi xe máy mà nó gọi là thằng khứa. Nó nói năng mấy câu với anh ta rồi nhảy lên xe, ôm eo anh ta như cặp vợ chồng. Chiếc xe rồ đi. Hương dựa vào gốc phượng đứng đợi. Nhiều người lượn qua Hương. Xe máy, xe đạp, có cả một ông già. “Đi không em? Đi không em?” Hương đứng như cái cọc. Cô cắn môi, cố đứng vững để khỏi vùng bỏ chạy. Cô phải đợi Mai. Hương nhớ lại những bài hát. Những ánh đèn sân khấu xanh đỏ. Những tràng vỗ tay như sấm rền. Cuộc sống ở kia và ở đây. Kệ, cuộc sống.

Những người đi qua đường hỏi chán, bỏ đi.

Mai về, nhảy từ phía sau chiếc xe máy xuống. Chiếc xe lại rồ đi, dửng dưng, không duyên nợ. Những cuộn tóc xổ tung trên đầu Mai. Mồ hôi ướt lấm tấm trên trán Mai. Nó chửi khẽ đủ cho Hương nghe: “Đồ dê cụ, nó làm tao chết mất!”. Mai dúi vào tay Hương một nắm tiền:

– Tao chặt đẹp nó cho mày. Cầm lấy rồi trở lại bệnh viện mua cái gì cho cụ đi. Chiều mai tao sẽ đến mày. Bây giờ tao phải đi kiếm chút cho tao.

Hôm sau, Mai đến thật, bảo là đã gặp được thằng nọ. Nó đồng ý chi năm chỉ cho vụ này. Hương lặng câm, muốn chạy đi đâu cho thoát nợ. Nhưng Mai đã nuôi Hương và mẹ từ đêm qua đến nay. Số tiền Mai đưa không đủ thiếu vào đâu cho ca mổ, nhưng đã có giò lụa cho cụ ăn và sắm được cái cặp lồng để đưa cơm. Mai cũng nhục nhã lắm chứ, Mai có nhặt được tiền ở giữa đường đâu. Hương nhớ lại những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán Mai. Tại sao Mai có thể làm chuyện đó vì Hương mà chính Hương lại ngại?

– Được, tối nay tao sẽ chờ. – Hương đáp.

– Mày cứ đòi bằng được năm chỉ đeo vào tay rồi hẵng cho nó. Đừng khóc!

Mai nói thế nhưng nó cũng rơm rớm nước mắt.

– Chúng mình sinh ra phải số chó mực. Cứ thở dài đi cho nhẹ mình, nhưng phải hy vọng. Không còn cách nào khác đâu Hương. Ai rồi cũng có lúc qua cầu. Thằng đàn ông nào mà chẳng khốn nạn. Nhất là bọn giàu sang. Nó càng cao sang thì nó càng gí mình xuống đất. Cho thằng nào thì cũng thế thôi. Chỉ đau một tí tẹo, như cái kiến nó đốt, chảy một tí máu là xong.

Tối hôm đó Mai ngồi sau xe máy dẫn một chàng trai đến nhà Hương. Chàng trai đó là Huy. Lần đầu tiên nhìn thấy Huy, Hương mừng thầm. Hương chỉ lo Mai dẫn tới một ông già. Mai bảo những lão già thường thích trống bỏi. Hương muốn lên mặt kiêu kỳ, dửng dưng. Nhưng cô không làm thế được. Chàng trai có vẻ tử tế, không đến nỗi nào. Thôi, mẹ đang trông Hương từng giờ, nhắm mắt đưa chân cho nó xong. Cầu Trời Phật từ nay trở đi đừng bao giờ gặp lại anh chàng này nữa.

– Bây giờ em phải đi đâu hả anh?

– Tôi sẽ đưa cô đi.

Huy đưa Hương vào quán cà phê dọc đường. Hương ngồi xuống một cái ghế mây hình con sò, dửng dưng, không hề nghĩ tới gì hết. Cô chỉ nhớ những bài hát của cô.

– Tôi tên là Huy – chàng trai nói, nhìn Hương, đôi mắt lặng lẽ, hơi buồn và rất lạ. Hương tưởng tượng khác kia. Hương tưởng tượng người ta sẽ ăn tươi nuốt sống cô như con chó đói vồ một miếng thịt tươi rói – tên em thì Mai nói cho tôi biết rồi. Em uống cà phê trứng sữa.

Bà chủ đưa cho Hương một cốc cà phê trứng sữa, cho Huy một cốc đen và nửa bao Herô.

– Không phải cho anh mà cho người khác – Huy nói tự nhiên và lạnh lùng như bàn với Hương chuyện đi uốn tóc.

– Cho ai? – Hương hỏi.

– Cho người có tiền đưa em. Em uống đi. Anh có nhiệm vụ mời em uống cà phê trứng sữa và dặn dò em một số việc em cần phải biết. Để em khỏi hoảng hốt.

Huy vừa hút thuốc, điếu này đến điếu khác, vừa dặn dò Hương như một bác sĩ tận tình. Hương không để tâm lắm những điều Huy nói. Cô chỉ muốn biết ngay người có tiền đó là ai và như người tử tù đã được dẫn ra trường bắn, cô muốn kết thúc mọi việc cho nó xong càng sớm càng hay. Kéo dài ra khéo Huy không chịu đựng được nữa.

Huy đưa Hương vào cổng một ngôi nhà ở ven thành, có vườn, có một cái ao mới đào chưa chứa nước. Nhà cũng mới làm, chưa có người ở và sực mùi vôi vữa. Nhưng trong nhà đồ đạc sang trọng và bóng bẩy, thứ gì cũng lạ mắt, Hương chưa thấy bao giờ. Huy pha nước cho Hương uống, vẫn nhìn với đôi mắt rất lạ. “Như người ta nói thì anh này làm nghề ma cô – Hương nghĩ bụng – vậy mà sao trông lại hiền hiền, ăn nói lịch sự mới lạ. Mà sao anh ấy nhìn mình như người nhà”.

Uống xong chén nước, Huy dẫn Hương ra buồng tắm sát bên nhà. Chưa có nước máy nhưng vòi nước mạ kền như ở khách sạn. Huy đưa cho Hương một bộ đồ ngủ vải xoa Pháp.

– Em tắm rồi thay đồ ngủ. Xà phòng thơm đây.

Huy đưa Hương một miếng FA chưa bóc:

– Bộ đồ, miếng xà phòng này xong việc em cứ mang về, đây là bổng của em ngoài tiền lương là năm chỉ vàng. Em nhớ, đừng quên mà phí đi. – Giọng Huy chua chát.

Huy lên phòng khách, để lại Hương một mình trong toa lét. Dưới ánh điện màu xanh của bóng đèn nê ông bắt sát tường, Hương cởi quần áo treo lên mắc. Cô ngắm mình trong tấm gương đứng. Ngắm một lần nữa, lòng vẫn dửng dưng như đang mơ. Chưa bao giờ Hương được ngắm thân thể mình trong gương như thế này. ở nhà Hương thường quây một tấm cót lại để tắm. Những lần đi biểu diễn được ở khách sạn nhưng nhà tắm không có gương. Có hai Hương, Hương này và Hương kia, trong gương, chỉ nhìn thấy mà không sờ tới được. Tý nữa Hương này sẽ bị bán. Cái Hương kia còn như cũ được không? Hương vừa dội nước múc trong một cái vại lớn vừa nghĩ ngợi, vui vui, không sợ, không buồn.

Xinh xắn trong bộ đồ ngủ và thơm nức, Hương bước ra khỏi nhà tắm. Nhớ lời Huy lúc ngồi trong quán cà phê “Em đừng sợ, chuyện này là thường. Vài tháng một lần lại có một nữ đồng trinh qua tay ông ấy để lên thiên đường. Cô nào cũng được đối đãi tử tế, lịch sự cả. Người ta là chỗ cao sang”. Hương gọi:

– Anh Huy!

Chẳng nghe trả lời. Hương mở cửa bước vào phòng khách. Một người đàn ông cường tráng, tấm lưng phè ra ngoài tấm dựa ghế xa lông đang chăm chú đọc sách. “May quá, không phải một ông già” – Hương nghĩ bụng, thấy tự tin hơn. “Sẽ xong thôi, sẽ xong thôi, chẳng là cái gì cả, sẽ xong thôi”, cô nghĩ tiếp.

Người đàn ông quay đầu lại.

Hương lùi dần và cuối cùng nàng dựa hẳn lưng vào tường. Người đàn ông đó là Thục. Anh đứng dậy, thân vóc to lớn, bộ mặt hồng hào, vượng khí, nhưng chân anh run lẩy bẩy. Anh không ngờ cuộc gặp tình cờ này.

– Trời ơi, em! – Anh nói. – Anh đâu có ngờ gặp em ở đây.

Anh lẹ làng bước về phía Hương, cầm tay cô:

– Em ngồi xuống đi. Để anh rót nước em uống.

Anh khẽ lôi cô nhích theo mình, rất khẽ nhưng mạnh mẽ, dịu dàng và mạnh mẽ. Hương bước bên cạnh anh như cô đang trôi trên mặt nền đá hoa.

– Em thông cảm, chuyện của đàn ông, mà anh đâu có ngờ em đến đây. Chắc là em gặp khó khăn. Sao em không cho anh biết?

Hương ngồi xuống cạnh Thục. Cô nói như trong mơ:

– Không. Em điên mà, em điên đó. – Cô đứng dậy – em xin phép anh ra sau một chút.

Hương trở lại nhà tắm. Bộ quần áo đẹp nhất của cô vẫn treo trên mắc. Hương cài chốt cửa, cởi đồ bộ ra, mặc vào người bộ quần áo của mình. Cô nhẹ nhàng bước ra, đi vào bóng tối của khu vườn, lẩn dưới bóng mấy cây hồng xiêm, bước ra ngõ. Cửa khóa. Hương trèo qua cái cột xây, đi như chạy ra ngoài đường.

Huy ngồi trong quán nước, thuốc lá trên môi. Chiếc 67 dựng bên cạnh. Huy đã kịp nhìn thấy cô. Anh trả tiền, nổ máy, bắt gặp Hương dưới một gốc cây phượng già.

– Về sớm thế? – Huy hỏi.

– Em muốn về, em muốn trở lại bệnh viện.

– Ngồi lên xe, anh đưa về.

Hương cảm thấy Huy đã hiểu chuyện gì xảy ra.

– Cho em tới bệnh viện – Hương nói vẻ tin cậy.

Bà mẹ mù đang chờ mổ biết ngay con gái bà vừa bước vào phòng. Bà nói:

– Có mua cho mẹ miếng chả nào không con? Chả của bà Béo rỗ chợ Nhảy ngon nhất tỉnh. Mẹ ăn từ thời trẻ mà vẫn nhớ tới giờ.

Hương nói khẽ với Huy:

– Mẹ em cứ đòi ăn những món mới nghe đã ghê người. Một năm nay em có ăn chả bao giờ đâu.

Huy cởi chiếc nhẫn trao cho Hương:

– Em bán đi thuốc thang cho bà cụ. Anh cho em vay. Bao giờ có em trả cũng được. – Huy không cần biết Hương có nhận hay không, đưa thêm cho Hương mấy ngàn vét túi – Chạy ù đi, mua chả cho bà cụ. Cứ bảo của bà Béo rỗ, dù bà ấy chết mấy năm rồi.

Hương đã kể cho Thảo nghe tất cả những chuyện ấy. Cô nói với Thảo là cô có thể làm chuyện đó với bất kỳ ai để cứu mẹ cô nhưng người đó không phải là Thục. Cô biết Thục yêu cô. Vì vậy cô muốn Thục hiểu là cô không yêu anh và tình yêu là thứ không mua được. Còn Huy? Đến bây giờ Thảo vẫn không biết Huy có yêu cô gái này không. Nhiều lúc anh nghi ngờ không rõ Huy có công nhận trên đời này có một thứ gọi là tình yêu và người ta có thể chết vì nó, nhục nhã vì nó mà không ân hận. Nó vẫn nghêu ngao bài hát của nó: “Em là con suối – chở nước về biển khơi – Em là cái bát – đựng phở cho người xơi – một thế hệ không buồn – một thế hệ không vui…”

– Hương ở lại dây ăn cơm với bọn anh nhé? – Thảo đứng dậy chuẩn bị nấu ăn trưa. Có thể Tuấn sẽ về.

– Em xin anh về – Hương nói – em phải về nấu cơm trưa cho mẹ.

– Cái Liên đâu?

– Nó lên quận nộp hồ sơ xin đi lao động bên Đức.

– Hương tài nhỉ. Xin cho Liên đi Đức thì giỏi quá.

– Anh Huy lo cả đấy. Cái Liên đi được là em đỡ gánh. Em thì người ta cho đi cũng không dám đi. Em còn mẹ. Cái Liên đi được thì mừng quá.

Huy lấy được con bé này là tốt phúc – Thảo nghĩ – Nó sẽ làm biến đổi đời thằng bé lúc nào không hay.

– Hương này – Thảo đột ngột – Lấy thằng Huy đi.

– Em mà lấy anh Huy thì bọn em đuổi anh ra khỏi nhà. Anh và anh Tuấn ở vào đâu bây giờ?

– Ra nhà hát hay ga tàu hỏa. Lấy nó đi.

– Nhưng anh ấy chẳng lấy em đâu. Cả hai nghèo rớt mùng tơi, rồi ôm nhau mà chết đói. Anh Huy muốn lấy vợ giàu cơ.

Thảo nghe được âm vang của tình yêu nguyên thủy. Thứ tình yêu không pha trộn, không màu mè. Tươi mát như giọng nói của Hương. Hương ngồi trên chiếc ghế thấp. Lần đầu tiên anh thấy Hương đẹp. Anh sửng sốt nhận ra điều đó.

Thảo không nhớ trình tự xẩy ra thật chính xác. Ngay lúc đó là người công an hộ tịch quen biết bước vào. Rồi đến ông tổ trưởng. Theo sau là hai người mặc thường phục. Mặt mũi họ rất không bình thường. Anh công an hộ tịch nhếch mép chào, ông tổ trưởng gọi tên Thảo. Hai người kia im lặng.

– Anh Thảo – người công an nói – Huy đã bị bắt.

Thảo nhìn Hương. Hương vẫn ngồi trên ghế. Như là cô chưa hiểu người công an nói gì. Rồi mặt Hương tái dần.

Thảo không ngạc nhiên. Anh chỉ nghe mơ hồ câu hát của Huy: “Một thế hệ không buồn – Tôi là cái bát…”. Cái bát đang vỡ – Thảo nghĩ.

– Đề nghị anh cho khám nhà – người công an nói với Thảo.

– Xin cứ tự nhiên – Thảo nói, chỉ sợ người ta thu mất bản thảo cuốn sách đang viết dở – Trong nhà có một số đồ đạc không đáng kể của tôi.

– Anh yên tâm – người công an nói.

Có tiếng thét:

– Anh ấy tội gì mà bị bắt? Tại sao bắt anh ấy?

Hương khóc thành tiếng rồi lịm dần. Như tất cả can đảm đã bị đốt cháy hết trong tiếng thét. Một trong hai người mặc thường phục nói:

– Cô này là ai?

– Em họ tôi – Thảo đáp.

Người công an đường phố đọc lệnh khám nhà. Ông tổ trưởng là người làm chứng. Hai người mặc thường phục bắt tay vào việc. Một người lục lọi. Một người ghi. Những gì của Thảo thì anh nói: “Của tôi”. Mấy con chuột nhắt chạy nhắng lên trong đống sách vở, quần áo.

Cuộc khám nhà xong chóng vánh. Điều nguy hiểm nhất thì không được ghi vào biên bản: Cái Nghèo. Trong nhiều trường hợp, đó là nguyên nhân của tội ác.

Những người khám nhà có vẻ không vui. Trừ anh công an đường phố là bồ của Huy. Ông tổ trưởng không vui. Chắc ông cam đoan rằng trong nhà phải có một quả bom khinh khí. Hai người lạ mặt thất vọng. Họ lần lượt chào Thảo lần lượt đi ra sau khi đọc biên bản cho anh nghe và bảo anh ký bên cạnh người làm chứng.

Hương hồi tỉnh:

– Làm thế nào bây giờ anh Thảo?

– Cái bát không đựng phở được nữa – Thảo nói.

Anh nhìn lên bìa lịch. Hôm nay thứ sáu, ngày mười ba.

N.Q.T

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder