
11
Thảo nhớ lại, một lần nào đó Thục có kể cho anh nghe về con chó bốp.
Nó không có gia phả như một số chó Tây sang trọng khác. Nó thuộc loại chó nòi nhưng pha tạp nhiều và mất gia hệ. Một con chó nhặt được thì xuống giá rất nhiều. Phải mất rất nhiều công phu Thục mới tìm ra được cái lý lịch phức tạp của nó. Điểm xuất phát để Thục có thể đánh giá cao phẩm chất của con bốp là anh cảm thấy một cách mơ hồ nhưng đầy tin tưởng là trong máu nó, trong tính cách của nó có những giá trị bị vùi lấp. Và anh đã tìm ra cội nguồn món động sản giá trị của anh.
Ông nội bốp, một con béc-giê vùng An-dát có lai thêm khoảng một phần tư dòng máu béc-giê alơ-măng mũi thính. Những con chó Đức vùng biên giới đặc biệt có cái mũi thính vì chúng sinh ra ở một nơi tranh chấp có hàng trăm năm thù địch. Nó được gửi gấp bằng đường hàng không cùng vài chục con béc-giê khác với sứ mạng quá nặng nề là cứu vãn một đế quốc đang đến điểm suy tàn. Lúc đó, các tướng lĩnh tài ba nhất đã bó tay và đại tướng Na-va còn nuôi hy vọng mỏng manh cứu vớt tập đoàn Điện Biên Phủ. Như một con bạc cháy túi đến mụ người, bộ tham mưu quân đội viễn chinh nghe tất cả mọi lời khuyên răn. Người ta hy vọng vào bầy chó béc-giê thuần chủng, được huấn luyện chu đáo sẽ ngăn chặn có kết quả vùng du kích đang lấn vào chỗ trống của các binh đoàn cơ động. Những binh đoàn này bị rút đi để thả vào cái chảo không đáy miền Tây Bắc.
Con chó Tốt được giao cho đơn vị của đại úy Đơ Măng sô. Nó cùng với nhóm biệt kích sục sạo hầm bí mật, bắt du kích vùng Sông Mới. Nhóm biệt kích bị diệt không còn một tên, trừ con chó Tốt. Đồn Sông mới đưa Tốt về nuôi bất đắc dĩ. Đó là những ngày tồi tệ nhất của quân viễn chinh. Tên đồn trưởng bỏ ăn, uống rượu suốt tuần lễ rồi bắn một viên ru-lô vào đầu mình. Bọn lính ngụy thường trốn dần vào buổi tối, sau khi nghe đài BBC đưa bản tin tuyệt vọng về Điện Biên Phủ. Không ai nhớ đến con Tốt. Không ai cho nó ăn. Tốt lang thang ngoài bãi sông, bắt chuột đồng, đôi lúc ăn cả giun dế. Khi hiệp định Giơ-ne ký kết, đồn Sông Mới rút lẹ, bọn lính bại trận tranh nhau lên xe, quên phắt Tốt.
Con chó cô đơn vẫn ở lại đồn, bắt chuột đồng và những con giữ mồ đuôi vàng, tự nguyện canh giữ mấy cái lô cốt hầm ngầm vẫn sực nức mùi hôi lính đồn trú. Ban đêm nó tìm một chỗ ấm áp ngoài cổng, nằm dài ra, thè lưỡi đánh hơi những người nông dân đã được tự do qua lại trong vòng bán kính một cây số. Từ hồi còn bên Pháp, ở vùng An-dát xa xôi, nó đã được tập luyện để đánh hơi, phát hiện cái mùi Đông Dương (L’deur indochinoise) đó. Nhà binh Pháp gửi về trại nuôi chó trận những bộ quần áo lột ra từ xác chết hoặc ngay trên người tù binh Đông Dương.
Tốt, tên lính cuối cùng vẫn giữ nguyên mặc cảm thù hận.
Trong những ngày đầu chiến thắng chẳng mấy ai qua lại chỗ cái đồn bỏ trống. Lắm việc còn phải làm, cái chỗ ấy tanh tưởi, vấp phải mìn hay lây bệnh giang mai thì khốn! Nhưng họ ngại nhất vẫn là con chó. Đêm đêm nó không sủa mà tru từng hồi, tiếng vọng một thời chết chóc, tao loạn. Một lần, trong làng có người tên Phó Rận, quần áo rách tổ đỉa, lần mò lên bốt mong kiếm được một hộp cá, mẩu bánh mì mốc. Chập choạng tối, Tốt đang đói dài, thè lưỡi liếm chiếc vỏ hộp cá xác-đin, bổi hổi nhớ lại thời vàng son, cái thời nó hưởng lương hạ sĩ. Phó Rận mò đến không đúng lúc. Tốt nhảy lên cổ ông ta. Một thứ máu nhạt màu, hơi loãng vì thiếu ăn phun thành vòi trên cái cổ rách nát của người đàn ông đói khổ. Chiều hôm đó, một anh du kích bò toài rất công phu lên đồn hoang, bắn chết con chó. Không ai ăn thịt nó vì nó đã tong ăn thịt người.
Nhưng con Tốt không biến mất. Nó đã kịp để lại giọt máu của nó. Mấy tháng sau, nhà Dẻo ở xóm Cây Si có một ổ chó lạ. Bầy chó trông khác thường, có những cái tai lá đề, dỏng cao. ổ chó chỉ nuôi được một con đầu đàn. Nó lớn rất nhanh vì quá no sữa. Người làng cạnh đồn Sông Mới nhận ra con Tốt ăn thịt người trong dáng vóc con chó mới lớn của bà Dẻo. Mấy người hàng xóm bàn với bà: “Thịt nó đi. Thứ này nó rước tai họa vào nhà mình cho mà xem!”. Bà Dẻo không nghe. Bà biết hơn ai hết, chính con Mực lẳng lơ của nhà bà đã rước nó về đó thôi. Dạo ngày Tây rút nó vẫn bỏ nhà đi suốt đêm, bà nhìn thấy trên lông nó những vết rách rỉ máu. Đúng là nó đã chui rúc đâu đó ở hàng rào thép gai trên cái đồn bỏ không để tìm của lạ.
Con chó lớn lên, không dữ, không sủa dai nhách như lũ chó Vện, chó Vằn trong xóm. Nó lầm lì, nhảy xổ vào bất kỳ người lạ nào đến nhà. Nhà bà Dẻo vắng khách hẳn đi từ ngày nó biết cắn, biết sủa. Nó không ăn cứt, đơn độc, không hòa nhập được với bầy chó trong xóm. Bà Dẻo không có cơm thịt cho nó ăn, nó ra đồng săn chuột chán rồi ngoan ngoãn về nhà. Có điều lạ là những người trong nhà bà Dẻo không ai thân được với nó. Nó không cắn người nhà, nhưng cũng không vồn vã, không ve vẩy đuôi một cách quá đáng như bầy chó nhách kia.
Rồi một hôm có một ông to béo phục phịch về kiểm tra một vụ tham ô ở hợp tác xã. Ông tình cờ nhìn thấy con chó nhà bà Dẻo. Ông hỏi han dân làng gia phả của nó rồi đòi mua bằng được. Ông chủ nhiệm đang muốn chiều khách liền cho bắt một con lợn giống đổi cho bà Dẻo lấy con chó. Thế là con chó được ngồi lên chiếc xe sang trọng về thành phố. Nó nhảy cững lên trong xe, không chút buồn phiền vì phải xa cái làng nghèo nàn chỉ có những con chuột đồng gầy nhom. Mùi thuốc lá thơm, mùi giàu sang trong xe, ngồi trước là một ông chủ sang trọng. Mùi của một cuộc sống quen thuộc đang sống lại trong máu của con chó vốn có bố là một ngài hạ sĩ trong quân đội viễn chinh.
Chủ của nó mỗi ngày một giàu, đủ chức tước. Phó cái này, trưởng cái kia, kiêm cái nọ, phải viết dễ nửa trang giấy mới hết. Của cải theo chức quyền vào nhà ông như nước chảy về chỗ trũng. Nhưng ông vẫn thấy chưa vừa lòng. Ông muốn tự mình làm ra của cải kia. Bởi vì một đồng ông làm ra có thể che giấu, bảo vệ cho trăm đồng ông giật được. Ông yết bảng cho lấy giống chó nòi. Người ta lũ lượt dắt chó đến. Tiền bạc lại chảy vào nhà ông. Ông mua vàng, sắm thêm tiện nghi để làm sang trọng thêm ngôi nhà vốn đã cực kỳ sang trọng. Con chó được gọi bằng cái tên xứng đáng với dòng dõi: Tốt. Nó được đổi đời. Từ chỗ lủi thủi, bất đắc chí và đơn độc trong ngôi nhà hôi rình như cái lều vịt của bà Dẻo, phải vật lộn sứt đầu mẻ trán suốt tháng bảy may ra mới tranh được một con cái gầy nhách, nay được tung tăng trong cảnh nhà cao cửa rộng và triền miên truy hoan với bầy thê thiếp từ khắp nơi tự dẫn xác đến. Nó cố giữ được dáng vẻ cao ngạo, cố làm cái việc xứng đáng với ông chủ và những quả trứng gà tươi rói người ta đặt vào đĩa cho nó.
Theo lệ thường những người đến lấy giống phải trả lại con chó đầu đàn cho ông chủ của Tốt. Ông thường dùng những con chó con để biếu xén bạn bè và cấp trên vì họ đang phất. Họ sắm cửa xếp bằng sắt và tìm một hoặc hai con chó Tây để ngăn ăn mày, kẻ trộm và những kẻ chỉ có hai bàn tay không và cái miệng vô duyên đến cầu cạnh, van nài. Tất cả những công việc kinh doanh này, mục đích cao cả nhưng hậu quả là làm lan truyền giống chó béc-giê ở xứ con Tiên cháu Rồng, những con chó dưới mắt người dân là biểu hiện của sự gớm ghiếc, vô đạo tây dương.
Việc kinh doanh phức tạp và có nhiều ý nghĩa tế nhị đó được ông chủ giao cho người thư ký riêng của mình, một viên trợ lý tin cẩn, thông minh, có bằng cấp và đặc biệt trung thành (sau này mới biết là ông chủ đã nhầm về đức tính này). Tóm lại, đó là một vị thư ký riêng “không chê vào đâu được” như ông thường nói. Phải kể thêm một khả năng ngoài chức danh mà người thư ký làm với sự tự nguyện và hào hứng là dạy chó. Anh có cách bắt bầy chó Tây con bú mẹ một cách trật tự, đến hai tháng tuổi đã biết chào, biết bò, biết nịnh bợ người cho ăn. Anh dạy chó một cách say mê, tự thể hiện khả năng và tham vọng của một người thích thống trị và điều khiển người khác. Như một tín đồ tử vì đạo, anh không ngại hôi hám, bẩn thỉu, nhặt nhạnh hay xin ở đâu đó những chiếc nón rách, bị cói, cây gậy tre, cái quần xơ mướp, nghĩa là trang bị của ăn mày hay nông dân. Anh dùng những thứ đó làm giáo cụ để dạy cho đàn chó biết phân biệt được kẻ giàu người nghèo, kẻ hèn người sang. Để chúng biết bảo vệ cái gì, chống lại cái gì. Tóm lại, để làm vừa lòng những ai bỏ tiền ra mua chúng, ngày ba bữa cho chúng ăn phổi bò, xương lợn, uống nước thịt hầm, thứ thịt phế thải mua hàng rổ từ lò sát sinh. Anh tự hào vì kỹ thuật diệu nghệ của mình trong việc dạy chó.
Người thầy nào cũng mong có học trò giỏi. Người thư ký tài ba đã rất sung sướng nhận ra trong những lứa chó nối tiếp nhau ra đời, một con chó thuần chủng. Con Bốp. Qua bao mạo hiểm của chiến tranh rồi sau đó bị các ông chủ lê dương bỏ lại một vùng quê đầy biến động. Qua bao cuộc phiêu lưu tình ái, lai tạp có chọn lọc và không chọn lọc. Tốt lại hiện ra. Điều này không có gì chống lại học thuyết của Moóc-gan và Men-đen vĩ đại. Như ân huệ của đấng toàn năng, đứa cháu nội của con Tốt ly quê và bất hạnh lại được một chàng thư ký riêng tài ba dạy dỗ, được nuôi dưỡng từ ngày trứng nước trong một gia đình quyền quý. Nó sớm biết phân biệt ăn mày với người thường, người nhà quê với dân thành phố. Bốp chỉ ăn khi chủ bỏ thức ăn vào đĩa, một cái đĩa đẹp có vẽ hoa văn, vì thế khó có tay đạo chích nào tính chuyện đánh bả nó được.
Thảo đã xa hẳn Thục về mặt tình cảm trong thời gian Thục làm thư ký riêng cho ông nọ.
Nhưng hãy quay về con chó Bốp. Nó được chuyển qua tay Thục trong một hoàn cảnh bí ẩn. Việc sang tay này đã đánh dấu một cuộc đổi đời: Thục được đặt vào quỹ đạo của sự nghiệp mỗi ngày một triển vọng. Một buổi chiều sau giờ làm. Lệ thường, ông thủ trưởng về muộn. Ông còn bao nhiêu việc, đâu có được như mọi người, cứ đến giờ là dắt xe ra khỏi cơ quan. Chiều hôm ấy, Thục, người thư ký mẫn cán và trung thành không gõ cửa mà xộc vào phòng ông khi ông cùng một người đàn bà nổi tiếng đang mặc một thứ quần áo không thể nào tả lại được và đang làm những chuyện không thể nào kể lại được. Thục thản nhiên nói hai tiếng xin lỗi, đưa mắt sắc như dao liếc mặt ghế đi văng nhăn nhúm, giả đò ngơ ngác như anh là cậu bé đồng trinh từ bầu trời thanh sạch rơi xuống trần gian. Anh từ từ đi thụt lùi, cẩn thận khép cửa, vặn quả đấm kỹ càng rồi biến mất.
Một tháng sau Thục được cử làm giám đốc một cơ sở được bao nhiêu người thèm thuồng. Chàng kỹ sư nhiều khát vọng được phóng vào quỹ đạo vẫn dành cho những người thư ký riêng biết quá nhiều hơn là tài ba hoặc mẫn cán. Thục vừa là người biết quá nhiều, vừa là người có tài và mẫn cán, không ai ghen tỵ với anh. Bước nhảy này của Thục là một quả số độc đắc mà bạn bè cùng lứa không ai có thể làm nổi. Những người bạn ấy may ra đạt được vị trí của Thục sau mười lăm năm ra trường.
Con chó Bốp là một lạc khoản kèm theo những điều kiện về chức vụ, lương bổng, vân vân đã được hai người – thủ trưởng và thư ký – thương lượng với nhau kỹ càng. Sự im lặng đúng là vàng: một chức vụ thơm tho và con chó quý.
Ông chủ và cả bà chủ nữa rất buồn phiền vì mất con chó. Sau đó, tai họa dồn dập. Đầu tiên là những tiếng đồn trong giới cận vệ về hưu. Rồi thư từ, đơn tố cáo, một tờ báo e dè đưa tin… Kết thúc là đoàn thanh tra, viện kiểm sát, những cú điện thoại, nghĩa là cái bộ máy tuy chậm chạp, khúc mắc, khi tiến khi lùi nhưng vẫn còn hiệu lực, đã giáng búa rìu xuống số phận đang lên như diều của ông chủ.
Sau đấy vài năm, người ta lại gặp ông trên đường phố, đạo mạo và lầm lỳ như một nhà tư sản trước tiếp quản thủ đô, dắt bên trái đứa cháu bốn tuổi, bên phải một con béc-giê đẹp tuyệt vời. Con người từng có một thời vô vàn sức mạnh nay về hưu, làm chủ một biệt thự do chính vợ chồng ông xây lên hồi đang chức “bằng tiền nuôi lợn và chó nọc” như lời khai với ban thanh tra. Hai ông bà ung dung sống, thanh thản và tự tin trong bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ.
Vậy là con Bốp, cháu nội của Tốt, trở thành con chó nòi của Thục. Dạo đó anh chưa cưới Chi, là thủ trưởng cơ quan, anh sống trong một căn phòng khiêm tốn, ở và làm việc trong khu trụ sở. Bốp rất hài lòng được sống với người thầy quen hơi bén tiếng từ nhỏ. Nơi nó ở cũng kín cổng cao tường, cũng nức mùi nước hoa và xà phòng tắm Pháp. Nó thường phải ở nhà một mình vì Thục đi họp luôn. Chỉ trong những ngày chủ nhật hay ngày lễ, nó được Thục dẫn ra đường, bịt mõm, một cái mõm chó bằng da hải cẩu mua tận nước Nhật. Nó đi với chủ ra quán cà phê. Đây là một nét mới trên đường phố. Những ông thủ trưởng khác, vốn không lạ gì thói thường, vẫn phải hút lén thuốc lá thơm trong nhà, ăn mặc giản dị khi đi ra phố và ít xuất hiện ở chốn ăn chơi. Họ biết rõ, một chút tiếng đồn về tính khiêm nhường và giản dị (dù là giả vờ) lợi hại như thế nào để vượt lên các đối thủ trên cái cột mỡ của sự thăng tiến. Họ chịu nhịn một cuộc cãi nhau, nén mình trước một bộ quần áo đẹp, một cô gái mỹ miều hay một cách sống sang trọng hôm nay để có tất cả những thứ đó trong tương lai gần nhất. Họ biết thói đời, chẳng thà không làm việc gì hết còn hơn hùng hục làm mà thất lễ với cấp trên. Họ kìm hãm trí tuệ của họ lại để không bao giờ vi phạm một điều tối kỵ là giỏi và thông minh hơn cấp trên trực tiếp của họ. Vì vậy, trí tuệ của họ trì độn dần, thoái hóa dần. Bởi, thay vì dùng đầu óc để sáng tạo trong công việc, họ dồn vào chăm chút đạo đức, tính tình, tác phong sinh hoạt hàng ngày, nghĩa là làm sao chường ra được một bản mặt khiêm tốn, chín chắn và biết kính trên nhường dưới.
Họ sản xuất ra những cái quạt không có gió nhưng khi chạy thì tiếng kêu lại vượt mức yêu cầu, những điếu thuốc lá không cháy còn những que diêm an toàn lại quá nhạy, những cốc bia làm đau đầu vì quá nhiều cồn còn những chai rượu mạnh thì nhạt như bia. Nhưng họ vẫn được khen là những đồng chí giám đốc có đạo đức.
Thục biết hơn ai hết những kiểu giám đốc như thế đã hết thời. Anh xử sự khác hẳn những vị thủ trưởng vẫn chưa gột rửa hết bản tính rụt rè, xét nét của người nông dân nơi quyền quý. Thục biết cuộc sống đang đổi thay và anh cần một bộ mặt khác. Anh hút thuốc lá thơm, ăn mặc thích hợp và lịch lãm, tán tỉnh ngang nhiên các cô gái đẹp trong những cuộc họp nghiêm chỉnh nhất nhưng không dính vào một vụ tai tiếng nào. Và như ta biết, Thục đàng hoàng dắt con Bốp đi chơi rong. Đối trọng cho cách sống lạ mắt đó, Thục dồn trí tuệ linh hoạt của anh vào công việc. Cơ quan anh phụ trách nổi bật lên trong thành phố nhờ những phương thức làm việc mới có kết quả. Chỉ sau một thời gian ngắn, đã có những người nặng ký nói về anh: “Thằng này được thời thì nó còn leo đến sao Hỏa”. Thục hơn hẳn cánh giám đốc cũ kỹ kia nhờ cái mũi. Anh đánh hơi được thời thế đang chuyển mùa và biết trước điều không ai ngờ sau vài năm là người ta không thể hy vọng gì một ông giám đốc không biết uống bia và hút thuốc lá ba số.
Chính trong một ngày chủ nhật chớm lạnh, cái áo peau de dain màu mận chín giá một chỉ rưỡi vàng trên người, tay dắt con chó Bốp, vừa đi vừa huýt sáo trên vỉa hè một đường phố chính, Thục đã gặp Chi. Hôm đó Chi đi với Tuấn và Thảo. Thảo đã giới thiệu Chi với Thục. Còn Tuấn đã nhẹ dạ bỏ rơi hạnh phúc thầm kín của đời anh để chuyển thành nỗi bất hạnh cho cả ba người…
(Còn tiếp)
N.Q.T