
Trải qua gần 400 năm, vượt ra khỏi sự đào thải của thời gian, Đôn Kyhôtê – Nhà quý tộc tài ba xứ Mantra vẫn giành được sự hâm mộ rộng khắp và được công nhận là một trong những tác phẩm văn học lớn nhất của nhân loại. Năm 1795, nhà đại văn hào Đức, Gớt (Goethe), viết cho nhà thơ lớn Silơ (Schiller): “Tôi đã tìm thấy trong cuốn tiểu thuyết của Xervantêx cả một kho tàng thú vị và bổ ích”…
Với ý nghĩa đó, bắt đầu từ hôm nay, vanhaiphong.com xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc tác phẩm ấy trong mục truyện nhiều kỳ. (bản dịch của Trương Đắc Vị)
Trải qua gần 400 năm, vượt ra khỏi sự đào thải của thời gian, Đôn Kyhôtê – Nhà quý tộc tài ba xứ Mantra vẫn giành được sự hâm mộ rộng khắp và được công nhận là một trong những tác phẩm văn học lớn nhất của nhân loại. Năm 1795, nhà đại văn hào Đức, Gớt (Goethe), viết cho nhà thơ lớn Silơ (Schiller): “Tôi đã tìm thấy trong cuốn tiểu thuyết của Xervantêx cả một kho tàng thú vị và bổ ích”.
Với ý nghĩa đó, bắt đầu từ hôm nay, vanhaiphong.com xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc tác phẩm ấy trong mục truyện nhiều kỳ. (bản dịch của Trương Đắc Vị)
Cuốn tiểu thuyết Đôn Kihôtê – Nhà quý tộc tài ba xứ Mantra, tác phẩm xuất sắc nhất của Mighel đê Xervantex Xaavêđra, ra đời năm 1605 (phần thứ nhất – 52 chương). Người ta cho rằng ông bắt đầu sáng tác vào năm 1602, lúc đang ở trong nhà tù Xêviia, vì như ông đã viết trong lời nói đầu, “tôi thai nghén nó (cuốn tiểu thuyết Đôn Kihôtê – Nhà quý tộc tài ba xứ Mantra – ND) trong một nhà tù, nơi trú ngụ của mọi bất tiện và mọi âm thanh buồn thảm”.
Từ khi ra đời, cuốn tiểu thuyết Đôn Kihôtê – Nhà quý tộc tài ba xứ Mantra đã chinh phục dư luận người đọc trong nước cũng như ngoài nước. Ngay trong năm 1605, tại Tây Ban Nha, tập truyện đã được tái bản 5 lần, và sinh thời, Xervantêx đã nhìn thấy tác phẩm của mình được xuất bản 13 lần (6 lần ở Tây Ban Nha, 3 lần ở Bồ Đào Nha, 3 lần ở Bỉ, 1 lần ở Ý).
Một hôm, vua Tây Ban Nha Phêlipê III đứng trên lâu đài nhìn xuống đường, thấy một anh học trò đang đọc một cuốn sách, thỉnh thoảng lại ngừng đọc cười vang. Nhà vua thầm nghĩ: “Hoặc tên học trò kia điên, hoặc là hắn đang đọc cuốn tiểu thuyết Đôn Kihôtê – Nhà quý tộc tài ba xứ Mantra”. Quả nhiên anh học trò đang đọc cuốn tiểu thuyết đó thật.
Vào tháng 2 năm 1615, có một đoàn sử giả Pháp sang Tây Ban Nha để đón công chúa Ana đê Aoxtria. Lâu nay hâm mộ tài năng của Xervantêx, họ xin được tới thăm ông. Tới nơi, thấy cảnh nhà quá thanh bạch, một người thốt lên:
“Sao! Một con người như vậy mà nước Tây Ban Nha không lấy công quỹ cung dưỡng và làm cho giàu có ư!”. Một người khác nói thêm một cách ý nhị: “Nếu sự nghèo túng buộc ông ta phải viết sách thì cầu Chúa cho ông ta không bao giờ sung túc để những tác phẩm của một người nghèo như ông làm giàu thiên hạ”.
Ngày 23 tháng 4 năm 1616, Mighel đê Xervantêx Xaavêđra qua đời tại Mađrít. Khi đó, ông 69 tuổi.
Lời Nói Đầu
Độc giả nhàn hạ, chẳng cần thề thốt, tôi chắc rằng các bạn cũng phải tin rằng tôi muốn cuốn sách này – con đẻ của trí tuệ – phải là cuốn sách hay nhất, tốt nhất, hoàn hảo nhất mà người đời có thể hình dung được. Nhưng tôi không thể làm trái quy luật tạo hóa là loài nào sinh ra giống nấy. Thành thử, với khối óc khô cằn và thô thiển của mình, tôi chỉ có thể tạo nên một câu chuyện khô khan, ngô nghê, vô lý, đầy rẫy những ý tưởng tản mạn không ai nghĩ tới bao giờ. Vả chăng, tôi đã thai nghén nó ở trong một nhà tù[1], nơi trú ngụ của mọi bất tiện và mọi âm thanh buồn thảm. Cảnh vật yên tĩnh, thôn xóm thanh bình, đồng quê êm ả, bầu trời trong sáng, tiếng suối róc rách, tâm trí thảnh thơi, nhưng cái đó một phần lớn khiến cho những thi hứng cằn cỗi nhất cũng trở nên phong phú và nảy nở những án văn chương khiến người ta phải thích thú và thán phục. Một người cha có một đứa con xấu xí, không được một vẻ gì, nhưng tình thương che mắt ông ta khiến ông ta nhìn những cái dở, cái xấu của con mình lại thấy nó hay, nó đẹp, và ông ta đi khoe khắp với bà con, bạn hữu. Nhưng tôi không phải là bố đẻ của Đôn Kihôtê như người ta tưởng, mà chỉ là bố dượng thôi. Cho nên, tôi không muốn làm như mọi người, khóc lóc van xin bạn đọc yêu quý rộng lượng bỏ qua những sai sót trong quyển sách này. Bạn không phải là người thân kẻ thuộc của nó, bạn có suy xét riêng và có quyền phê phán nó với tất cả sự sáng suốt của mình. Bạn lại ở ngay trong nhà bạn, nơi mà bạn có toàn quyền như nhà vua có toàn quyền trong việc thu thuế vậy. Phương ngôn có câu: “Một khi không sợ bị tội, con người có thể giết cả vua”. Hoàn toàn không có cái gì bó buộc bạn và bạn cứ nghĩ sao nói vậy, khen chê đều vô thưởng vô phạt, không có gì đáng e ngại cả.
Tôi muốn cuốn sách này tới tay bạn một cách mộc mạc tự nhiên, không tô điểm bằng những lời tựa hoặc bằng vô số những bài thơ ca và những lời tán tụng, như người ta vẫn mở đầu các cuốn sách. Bởi vì, xin thú thật, đối với tôi công việc biên soạn cả cuốn sách này có vất vả, song cũng không vất vả bằng việc viết lời mở đầu. Đã bao lần tôi cầm bút lên rồi lại đặt bút xuống, chẳng biết viết gì. Một hôm, giữa lúc tôi đang phân vân, tờ giấy trước mặt, quản bút gài tai, khuỷu tay chống lên bàn, tay ôm má, bỗng đâu có một anh bạn bước vào. Anh này là một người học rộng tài cao. Thấy tôi ngồi trầm ngâm, anh hỏi tại sao. Không giấu giếm, tôi trả lời là tôi đang suy nghĩ về lời mở đầu phải viết cho truyện Đôn Kihôtê, là tôi rất nản, không muốn làm và cũng chẳng muốn giới thiệu với thiên hạ những chiến công của trang hiệp sĩ tài ba như vậy.
Anh bạn ạ, tôi nói, tôi chẳng khỏi hổ thẹn trước những lời phê phán của người giám định nghệ thuật già đời là trước công chúng mỗi khi thấy tôi, sau bao năm im hơi lặng tiếng, giờ đây đã ngần này tuổi đầu, đưa ra một câu chuyện khô như ngói, không chút sáng tạo, bút pháp ngớ ngẩn, ý tứ nghèo nàn, học vấn thô thiển, thiếu dẫn giải ghi ở lề trang hay phụ chú ghi ở trang cuối cùng như những cuốn sách khác; và tuy những quyển này thật là hoang đường và phàm tục những lại được độc giả khâm phục do chứa đầy những câu châm ngôn của Arixtôtêlêx, Platôn và nhiều triết gia khác. Tác giả những cuốn sách đó được coi là những bậc tài giỏi, uyên bác, hùng biện; nhất là khi họ lại trích những lời trong Thánh kinh thì tưởng đâu họ là những thánh sống và những thuyết gia giáo lý đại tài. Câu trên họ tả một anh chàng si tình đồi bại, câu dưới họ dẫn ra một bài giáo thuyết nhỏ, khiến người đọc cảm thấy vui tai, mát mắt. Sách của tôi thiếu tất cả những cái đó vì tôi không biết ghi gì ở ngoài lề trang cũng như ở phần cuối; hơn nữa, tôi cũng chẳng biết những lời tôi trích dẫn ra do ai viết để còn ghi tên họ lên đầu cuốn sách theo thứ tự A, B, C… như người ta thường làm. Cuốn sách của tôi thiếu cả những bài thơ đề tựa của các vị công tước, hầu tước, bá tước, các vị giám mục, các mệnh phụ và văn hào nổi danh, mặc dù nếu tôi ngỏ ý với một vài người bạn quen, họ sẽ tặng cho những bài thơ còn hay hơn tất cả những tác phẩm của những thi sĩ tiếng tăm nhất trên đất Tây Ban Nha này. Cuối cùng, anh bạn ạ, tôi nói tiếp, tôi quyết định vùi sâu chôn chặt anh chàng Đôn Kihôtê trong đống văn thư lưu trữ của xứ Mantra cho tới khi Trời giúp cho một người có tài tô son vẽ phấn cho chàng ta. Riêng tôi thấy bất lực do thiếu học vấn và do bản chất nhút nhát, lười biếng, không chịu đi tìm kiếm những người nói lên điều mà tôi cũng có thể nói được nếu không có họ. Đó, chính vì vậy mà anh thấy tôi ngồi đắn đo, suy nghĩ. Bây giờ, sau khi nghe tôi trình bày, chắc anh đã hiểu rõ nguyên nhân.
Anh bạn vỗ trán, cười phá lên rồi nói:
– Lạy Chúa, té ra bây giờ tôi mới biết là tôi đã nhầm,anh bạn ạ. Từ lâu nay kết bạn với nhau, tôi cứ tưởng anh là con người khôn ngoan và thận trọng. Giờ đây, tôi thấy giữa anh và con người đó có một khoảng cách khá xa, cũng như trái đất cách xa mặt trời vậy. Làm sao những việc con con dễ giải quyết như thế lại có thể chi phối được một trí tuệ già dặn như anh, sẵn sàng đạp bằng những trở ngại còn lớn hơn nhiều! Thật ra, điều đó không phải phát sinh từ sự thiếu tài năng mà là từ sự lười biếng quá mức và sự thiếu suy nghĩ. Muốn biết tôi nói có đúng hay không, xin hãy lắng nghe và chỉ trong khoảnh khắc, anh sẽ thấy tôi gạt bằng mọi trở ngại và khắc phục hết những thiếu sót mà anh vừa nêu ra, nó đã khiến anh phải do dự, lùi bước, không dám cho ra mắt độc giả chuyện chàng Đôn Kihôtê trứ danh của anh, ánh sáng và tấm gương hiệp sĩ giang hồ.
Nghe anh bạn nói, tôi bèn hỏi lại:
– Thế theo ý anh thì làm thế nào gạt bỏ được nỗi lo lắng và những ý nghĩ mơ hồ của tôi?
Anh bạn đáp:
– Trước hết là những bài thơ ca hay những lời tán dương do những nhân vật có chức có quyền đề tựa. Để giải quyết vấn đề này, bản thân anh phải chịu khó làm, rồi sau đó ký một cái tên nào đó, tỉ dụ vua Huan xứ Ấn Độ hay hoàng đế xứ Trapixônđa là những nhà thơ nổi tiếng xưa kia, theo chỗ tôi biết. Và dù họ không có tiếng tăm gì chăng nữa, dù kẻ thông thái dởm hoặc ngứa mồm nào đó chê bai và tỏ vẻ hoài nghi sau lưng anh, anh cũng chớ quan tâm; cho rằng họ phát hiện ra điều dối giả thì cũng chẳng chặt được bàn tay cầm bút của anh. Về việc ghi ở lề trang tên tác giả và sách trong đó anh trích ra những câu châm ngôn, ngạn ngữ, chỉ cần làm thế nào đưa đúng lúc đúng chỗ mấy câu La Tinh mà anh đã thuộc lòng hoặc nếu không, chỉ cần bỏ chút ít công sức ra tìm. Ví dụ, khi người ta nói đến sự tự do hoặc sự giam cầm, hãy đưa câu La Tinh này vào: “Ngàn vàng không mua nổi tự do”, rồi ghi ở lề trang tên của Ôraxiô[2] hay tên người nào đã nói câu ấy. Bàn về sức mạnh của sự chết, đã có câu: “Cái chết đến với cả kẻ sang người hèn”. Nếu nói về tình bạn và tình yêu, hãy lấy ngay câu của Chúa trong Thánh kinh: “Ta khuyên các ngươi hãy yêu mến kẻ thù của mình”. Và về những ý nghĩ xấu xa, sách Phúc Âm nói rằng: “Nhưng ý nghĩ xấu xa xuất phát từ trái tim”. Về sự tráo trở của con người có câu của Catôn: “Giàu sang nhiều bạn lắm bè, đến khi hoạn nạn chẳng hề có ai”.
Với những câu La tinh đó hoặc những câu tương tự, anh sẽ được coi là một nhà thông thái, mà trên đời này, điều đó mang lại cho ta vinh dự và quyền lợi không nhỏ.
Còn về phần phụ chú ở cuối cuốn sách, chắc chắn có thể làm được theo cách sau đây: nếu anh định nêu tên một gã khổng lồ nào đó thì phải là Gôliáx, vì anh không mất gì mà lại có sẵn một lời phụ chú dài: “Trong cuốn sách của các đế vương có một chương nói về Gôliáx hay Gôliát, một kẻ ngoại đạo; y đã bị anh chàng chăn cừu Đavít dùng ná bắn đá giết chết ở thung lũng Têrêbintô”. Và để tỏ ra mình là một người học rộng, am hiểu vũ trụ, hãy tìm cách đưa con sông Tahô vào cuốn truyện của anh, thế là lại được một lời ghi chú nữa rất hay: “Một ông vua Tây Ban Nha đã đặt tên cho con sông đó là sông Tahô. Nó bắt nguồn từ một nơi nào đó, chảy qua thành Lixboa nổi tiếng rồi đổ ra biển, theo lời đồn, cát ở đây có vàng…”. Nếu muốn tả bọn kẻ cắp, tôi sẽ kể cho nghe chuyện Cacô mà tôi thuộc lòng, tả gái giang hồ, có chuyện Lamia, Laiđa và Phlôra của giám mục Mônđôgnêđô với rất nhiều ghi chú: tả những kẻ hung bạo, có nhân vật Mêlêđa của Ôviđiô[3]; tả bọn phù thủy có Calipxô của Ôraxiô và Xirxê của Virhiliô; tả những viên tướng dũng cảm có Hồi ký của Huliô Xêdar[4] và tác phẩm của Plutarcô[5]. Nói về tình yêu, chỉ cần biết dăm ba chữ Ý là tìm được vô số tài liệu trong sách của Lêôn Êbrêđô; còn nếu không muốn dùng sách nước ngoài thì ngay trong nước ta cũng có cuốn Tình yêu của Chúa do Phônxêca viết, trong đó có tất cả những điều mà anh và những người khó tính nhất yêu cầu. Tóm lại, chỉ cần anh ghi tên những chuyện đó vào cuốn sách của anh, còn phần chú giải và phụ chú đã có tôi; tôi xin cam đoan ghi đầy lề trang và cả bốn trang cuối cuốn sách.
Bây giờ đến việc ghi tên tác giả những cuốn sách tham khảo như người ta vẫn thường làm. Việc này rất dễ vì chỉ cần kiếm một cuốn sách nào đã ghi sẵn tất cả những cái tên đó từ A đến Z như anh nói, rồi bê nguyên văn vào sách của anh. Nếu sau đây có ai phát hiện ra vì thấy những sách đó cũng chẳng giúp ích gì nhiều cho anh thì điều đó không có gì quan trọng. Tuy nhiên, có thể có những đầu óc đơn giản nghĩ rằng anh đã đưa tất cả những câu chuyện rối rắm ấy vào trong quyển truyện giản dị và dễ đọc của anh. Dù thế nào đi chăng nữa, cả cái bảng tên tác giả dài dằng dặc ấy cũng đủ làm tăng giá trị cuốn sách. Vả lại, ai mất công đi kiểm tra lại xem anh có dựa vào những tác giả đó hay không. Hơn nữa, nếu tôi không nhầm, quyển truyện của anh không cần đến cái mà anh tưởng là thiếu, vì nó là một bản cáo trạng lên án những loại sách kiếm hiệp, khác hẳn với những sách của Arixtôtêlêx, thánh Baxiliô hay Xixêrô. Nhưng chuyện hoang đường kể trong đó không lệ thuộc vào những yêu cầu chính xác của sự thật, những nhận xét của ngành thiên văn học, những luật lệ về hình học hay tu từ học. Anh cũng không phải làm những bài thuyết giáo trong đó lẫn lộn cả những chuyện thánh thần và chuyện phàm tục, khiến cho không một người Kitô giáo nào nghe có thể lọt tai. Có điều phải học tập cách viết, học tập càng tốt, văn càng hay. Vả chăng tác phẩm của anh chỉ nhằm đánh đổ uy tín của những sách kiếm hiệp trong đám độc giả tầm thường nên nó cũng chẳng cần tới những câu châm ngôn của triết gia, những lời dạy trong Thánh kinh, những bài thơ ca, những diễn văn hoa mĩ hay những câu chuyện phi thường. Tuy nhiên anh viết phải đều tay, dùng những chữ dễ hiểu, sáng sủa, đặt đúng chỗ, sao cho câu văn đọc lên nghe êm tai, nhịp nhàng; phải nói lên được tất cả ý đồ và quan điểm của mình một cách rõ ràng, minh bạch. Làm sao khi đọc sách của anh, người buồn chán phải bật cười, người vui thấy vui thêm, người kém cỏi không chán, người tài giỏi phải khâm phục, người khó tính không chê, người khôn ngoan phải khen ngợi. Và nhất là phải luôn luôn đả kích các loại sách kiếm hiệp rẻ tiền tuy có bị nhiều người phê phán nhưng lại được một số đông hơn tán thưởng. Nếu anh đạt được mục đích đó tức là thành công đấy.
Tôi ngồi yên nghe bạn tôi nói. Lý lẽ của anh quả đúng không thể bẻ được. Tôi chỉ còn biết tán thành và ghi vào đây làm lời mở đầu qua đó độc giả sẽ thấy rõ tài năng của anh bạn tôi cũng như sự may mắn của tôi đã gặp đúng lúc một quân sư tài giỏi như vậy. Và thế là bạn cũng có dịp đọc câu chuyện thật về chàng Đôn Kihôtê nổi tiếng của xứ Mantra được mọi người ở huyện Môntiel coi như một tình nhân chung thủy nhất, một hiệp sĩ dũng cảm nhất, đã bao năm mới lại thấy xuất hiện trong vùng. Tôi không dám kể công về việc đã giới thiệu với bạn một trang hiệp sĩ cao quý và đáng khâm phục như vậy, nhưng tôi mong bạn sẽ cảm ơn tôi vì được làm quen với bác Xantrô Panhưnga trứ danh, người giám mã của Đôn Kihôtê. Theo tôi, đó là sự tập trung cao độ nhất cả những nét đáng yêu của một người giám mã, rải rác trong cả mớ sách viết về các hiệp sĩ giang hồ. Tới đây, cầu trời phù hộ cho bạn, và cho cả tôi nữa. Chào bạn.
Phần Thứ Nhất – Chương 1
Tính tình và công việc hàng ngày của nhà quý tộc trứ danh Đôn[6] Kihôtê xứ Mantra
Cách đây không lâu, tại một làng nọ ở xứ Mantra mà ta chẳng cần nhớ tên, có một nhân vật thuộc lớp những nhà quý tộc có ngọn giáo treo trên giá làm cảnh, một cái khiên cũ kỹ, một con ngựa gầy và một con chó săn. Bữa ăn hàng ngày của chàng chỉ có xúp bò, họa hoằn mới được thịt cừu; bừa chiều: thịt hầm[7]; thứ bảy: trứng tráng; thứ sáu: đậu; chủ nhật thêm một con chim câu nho nhỏ, thế là đã mất đứt ba phần tư số thu nhập. Khoản tiền còn lại dùng để may mặc: áo khoác ngoài bằng da nhẹ, quần bó và giày nhung dùng trong ngày dạ hội, ngày thường thi mặc quần áo may bằng loại vải cũng khá tốt. Trong nhà có một bà quản gia ngoại tứ tuần, một cô cháu gái chưa đầy đôi mươi và một anh chàng người hầu kiêm cả việc trông nom ruộng vườn, dọn dẹp nhà cửa và chăm sóc con ngựa. Nhà quý tộc của chúng ta sấp sỉ ngũ tuần, thể chất tráng kiện, da thịt sắt seo, mặt mũi xương xẩu; chàng có thói quen dậy sớm và rất thích săn bắn. Theo lời đồn, chàng mang biệt hiệu Kihađa hoặc Kêxađa. Về điểm này, mỗi tác giả nói một khác, song, theo sự ước đoán có thể đúng, tên chàng là Kihađa. Tuy nhiên, điều đó cũng chẳng ảnh hưởng gì lắm tới câu chuyện, miễn sao khi kể ta không để sót một điểm nào của sự thật.
Những lúc nhàn cư – cả năm chẳng mấy khi chàng bận rộn – chàng quý tộc của chúng ta chỉ mải miết đọc sách kiếm hiệp, đến nỗi hầu như quên cả thú đi săn và công việc nhà. Chàng ham mê đến mức cuồng dại, bán cả một phần ruộng đất đang cày cấy để mua loại tiểu thuyết đó mang về chất đống trong nhà. Chàng thích nhất những tác phẩm của nhà văn nổi tiếng Phêlixianô đê Xilva, coi những câu chữ sáng sủa và những lập luận lủng củng trong đó là những hàng châu ngọc, nhất là khi chàng đọc đến những lá thư tỏ tình hay thách thức đấu võ với nhiều đoạn như sau: Lý lẽ của sự phi lý mà nương nương đã viện ra để bác bỏ lý lẽ của tôi khiến cho lý lẽ của tôi không đứng vững nổi, tới mức tôi không thể không than phiền về sắc đẹp của nương nương, hoặc: Ông cao xanh kia, giai nhân tuyệt thế hỡi, cùng các vị tinh tú ban cho nàng phước lành và khiến nàng xứng đáng với những đức hạnh xứng đáng của nàng. Những câu chuyện như vậy đã làm cho chàng quý tộc khốn khổ bị mất trí. Chàng thức thâu đêm suốt sáng để cố tìm hiểu ý tứ của những câu mà giá như Arixtôtêlêx có sống lại để làm việc đó cũng đàng chịu. Chàng lấy làm thắc mắc về những vết thương của Đôn Bêlianix, nghĩ rằng dù có những ông thầy thuốc giỏi đến đâu đi chăng nữa, mặt và khắp người hiệp sĩ này cũng phải chằng chịt những vết sẹo và thương tích. Tuy nhiên, chàng khen tác giả đã khéo kết thúc cuốn sách, để câu chuyện bỏ dở. Lắm lúc, chàng có ý định cầm bút viết tiếp như tác giả đã hứa, và chắc chắn chàng đã làm và hoàn thành công việc đó nếu thường xuyên không bị những chuyện quan trọng hơn làm bận tâm.
Đã nhiều lần chàng tranh luận với Cha xứ là một người thông thái tốt nghiệp ở Xiguenđa về vấn đề ai hơn ai giữa hiệp sĩ Palmêrin nước Anh Cát Lợi và hiệp sĩ Amađix nước Gôlơ[8]. Nhưng bác phó cạo trong làng lại cho rằng không ai bằng hiệp sĩ Mặt Trời, chỉ có anh của Amađix là Đôn Galaor mới có thể sánh kịp với chàng này vì có đủ các điều kiện, về mặt dũng cảm thì cũng chẳng kém ai, lại không làm nũng và mau nước mắt như em.
Tóm lại, nhà quý tộc của chúng ta chỉ biết mỗi việc là đọc sách, đọc từ tối đến sáng rồi lại từ sáng đến tối; do ngủ ít đọc nhiều, óc chàng teo đi đến nỗi mất cả trí khôn. Đầu chàng chứa toàn những chuyện hão huyền đọc trong sách, nào là yêu thuật, đánh nhau, chém giết, thách thức, nào là tán tỉnh, yêu đương, đau khổ cùng bao nhiêu chuyện nhảm nhí khác, nó ăn sâu vào đầu óc chàng đến nỗi chàng coi tất cả những điều bịa đặt trong sách là sự thật, tưởng không có gì thật hơn trên đời này. Chàng bảo đầu lãnh Ruc Điax là một hiệp sĩ giỏi, nhưng không thể đem so sánh với hiệp sĩ Gương Nóng Hổi đã chém đứt đôi hai gã khổng lồ dữ tợn và quái dị bằng một nhát kiếm. Chàng lại càng khâm phục Bernađô đel Carpiô đã mưu trí giết Rôlđan mặc dù hiệp sĩ này được pháp luật phù trợ, giống như Êrculêx[9] bóp chết tươi Antêô, con trai thần Đất. Chàng ca ngợi Morgantê tuy thuộc giống khổng lồ kiêu căng và thô bạo nhưng tính tình lại hòa nhã và lễ độ. Chàng khâm phục nhất Râynalđôx đê Môltaban, đặc biệt là khi anh chàng này rời khỏi lâu đài đi cướp bóc lung tung, thậm chí vượt biển đánh cắp pho tượng Môhama bằng vàng như kể trong sách. Còn đối với tên phản bội Galaon, giá như đá được nó mấy cái thì dù có phải đổi cả bà quản gia lẫn cô cháu gái, chàng cũng vui lòng.
Thế rồi, trong lúc đầu óc rối loạn như vậy, chàng quý tộc của chúng ta bỗng nảy ra một ý nghĩ vô cùng kỳ quái mà một kẻ điên rồ trên đời này cũng không bao giờ nghĩ ra. Chàng cho rằng muốn tên tuổi của mình được rạng rỡ và bản thân mình giúp ích được cho nước nhà, chàng phải làm một hiệp sĩ giang hồ, một thương một ngựa chu du thiên hạ, tìm kiếm những chuyện phiêu lưu, làm những việc mà các hiệp sĩ giang hồ đã làm như viết trong sách, bênh vực kẻ hèn yếu, đạp bằng mọi gian nguy, để tiếng thơm lưu truyền mãi mãi. Chưa chi chàng quý tộc đáng thương của chúng ta đã mơ tưởng, bằng cánh tay dũng mãnh của mình, xoàng ra chàng cũng chinh phục được vương quốc Trapixônđa. Và say sưa trước những ý nghĩ say sưa đó, chàng vội vàng thực hiện điều mong ước. Thoạt đầu, chàng đánh bóng những vũ khí han gỉ của các cụ tổ để lại, vứt ở một xó từ hàng bao thế kỷ nay. Trong lúc hì hụi lau chùi và sửa sang lại chúng, chàng bỗng phái hiện ra một thiếu sót lớn là chiếc mũ sắt chỉ còn một nửa. Chàng bèn lấy một miếng bìa cứng, đem hết tài khéo léo ra cắt một miếng đắp và tạo ra một cái mũ nom cũng có vẻ đàng hoàng. Rồi muốn thử xem nó có đủ sức chịu đòn không, chàng tuốt gươm chém luôn hai nhát. Mới nhát đầu, cả công trình trong tuần lễ bỗng chốc tan tành. Thấy chiếc mũ vỡ toác một cách quá dễ dàng, chàng chẳng khỏi lo ngại, và muốn cho bảo đảm, chàng gia công làm lại. Lần này, chàng ghép một cái đai sắt ở bên trong và lấy làm hài lòng khi thấy chiếc mũ đã chắc chắn hơn. Tuy nhiên, chàng cũng chẳng thử lại làm gì, coi như chiếc mũ đã tốt lắm rồi.
Xong việc, chàng đi thăm con ngựa; mặc dù con vật nom thảm hại hơn cả con Gônêla, chỉ có da bọc xương, chàng cho rằng con Buxêphalô của Alêhanđrô hay con Babiêca của Đầu lãnh cũng không theo kịp nó. Trong bốn ngày liền, chàng suy nghĩ tìm cho nó một cái tên vì theo ý chàng , không có lý do gì ngựa của một hiệp sĩ tài ba lỗi lạc lại không có một cái biệt hiệu thật hay. Chàng muốn cái biệt hiệu đó phải nói lên sự thay đổi của nó từ một con ngựa tầm thường trở thành tuấn mã của một hiệp sĩ giang hồ; vả chăng một khi chủ nó đã đổi nghề thì tất nhiên nó cũng phải mang một cái tên thích hợp và làm công việc mới của nó. Sau bao lần đặt rồi lại bỏ, thêm rồi lại bớt, chàng quyết định gọi nó là Rôxinantê[10]. Theo chàng, cái tên đó rất hay, kêu, lại có ý nghĩa giới thiệu được con ngựa trước kia là một con vật tầm thường và bây giờ đứng đầu tất cả những con ngựa trên đời.
Hài lòng về cái tên đặt cho ngựa, chàng cũng muốn đặt biệt hiệu cho mình. Thế là lại mất tám ngày nữa. Cuối cùng, chàng tự xưng là Đôn Kihôtê[11], do các tác giả viết về câu chuyện có thật này nói rằng chàng không phải là Kêxađa như nhiều người nói mà là Kêhađa[12]. Nhưng chàng sực nhớ rằng trước kia hiệp sĩ ama dũng cảm không chịu mang cái biệt hiệu cộc lốc là ama mà lại ghép thêm tên tổ quốc vào thành ama nước Gôlơ với ý muốn làm cho nước mình trở nên lừng lẫy. Thế là chàng cũng ghép thêm tên xứ sở vào thành Đôn Kihôtê xứ Mantra để giới thiệu nơi sinh trưởng của mình, đồng thời làm rạng rỡ quê hương mình.
Sau khi lau chùi vũ khí, sửa chữa mũ mãng, đặt tên cho ngựa và cho mình một cái biệt hiệu khá oai, chàng thấy còn một việc nữa là tìm cho mình một tình nương, vì một trang hiệp sĩ giang hồ không có người yêu ví như cây không lá không quả, như xác không hồn. Chàng thầm nói:
– Nếu trời bắt tội hoặc nếu số phận ta may mắn, ta chạm trán với một gã khổng lồ – điều thường xảy ra với các hiệp sĩ giang hồ – ta quật ngã được nó hoặc chém nó đứt đôi, hoặc ta đánh bại nó và bắt nó quy hàng, mà ta lại có một tình nương dịu hiền để bắt nó tới trình diện thì thật hay biết mấy! Ta sẽ bắt nó quỳ trước mặt nàng và bắt nó nói với nàng bằng một giọng khúm núm, phục tùng: “Thưa phu nhân, tôi là khổng lồ Caracumliambrô, chúa đảo Malinđrania. Hiệp sĩ Đôn Kihôtê xứ Mantra mà người đời không đủ lời ca tụng, đã đánh bại tôi trong một cuộc độc chiến và ra lệnh cho tôi đến trình diện phu nhân đề tùy phu nhân định đoạt số phận của tôi”.
Ôi, chàng hiệp sĩ của chúng ta sung sướng biết bao khi thốt lên những lời lẽ hùng hồn như vậy, và nhất là sau khi đã tìm được người đẹp để đặt tên. Theo lời đồn, đó là một cô thôn nữ xinh sắn ở làng bên, có một thời kỳ chàng đã phải lòng mặc dù cô này không hề biết chàng. Tên cô là Alđônxa[13] Lôrenxô. Chàng thấy cô ta xứng đáng để chàng thờ phụng. Muốn cho tên cô ta tương xứng với tên chàng và cũng na ná tên các công chúa, công nương, chàng bèn gọi cô là Đulxinêa làng Tôbôxô vì cô sinh ra ở Tôbôxô. Theo chàng, cái biệt hiệu đó nghe êm tai, hay tuyệt và cũng có nghĩa như cái biệt hiệu của chàng và của con ngựa.
Chương 2
Cuộc xuất hành đầu tiên của chàng Đôn Kihôtê tài ba
Sau khi chuẩn bị xong, Đôn Kihôtê bắt tay ngay vào hành động. Chàng nghĩ mình sẽ có tội với đời nếu trì hoãn việc trả thù cho những người bị xúc phạm, bênh vực kẻ hèn yếu, uốn nắn điều sai trái, phi lý, đả phá mọi lạm dụng bất công. Thế rồi vào một trong những ngày tháng bảy nóng nực nhất, trời chưa tỏ, chẳng nói với ai mà cũng chẳng ai hay, Đôn Kihôtê khoác vũ khí vào người, nhảy lên con Rôxinantê, đầu đội mũ sắt, một tay ôm khiên, một tay vác ngọn giáo, lên cổng sau ra thẳng ngoài đồng, vô cùng sung sướng thấy bước đầu thuận lợi. Nhưng vừa mới lên đường, chàng chợt nảy ra một ý nghĩ khủng khiếp khiến chàng suýt bỏ dở sự nghiệp mới bắt đầu. Chàng nhớ là mình chưa được phong tước hiệp sĩ và, chiểu theo luật lệ của giới hiệp sĩ giang hồ, chàng chưa thể và cũng chưa được đọ sức với bất kỳ một hiệp sĩ nào khác. Vả lại, dù có được phong tước rồi, chàng vẫn là lính mới, chưa có một biểu tượng nào trên khiên khi chàng còn chưa lập được chiến công hiển hách. Những ý nghĩ đó khiến chàng trở nên do dự. Song, tính điên rồ đã giúp chàng thắng mọi trở ngại. Chàng định bụng khi gặp người đầu tiên, chàng sẽ nhờ phong tước hiệp sĩ cho, giống như các hiệp sĩ khác làm như kể trong sách. Còn về vũ khí, chàng sẽ lau chùi thật bóng chờ dịp. Nghĩ vậy càng thấy yên tâm và lại tiếp tục lên đường. Chàng để mặc con ngựa tự do chọn hướng, nghĩ rằng phải đi như thế mới đúng là tìm những chuyện phiêu lưu.
Chàng hiệp sĩ mới mẻ của chúng ta vừa đi vừa nói một mình:
– Chắc là sau đây, lúc ra sách nói về các chiến công của ta, tác giả sẽ viết như sau trong đoạn kể về buổi sớm đầu tiên ta xuất hành: “Khi vầng hồng vừa mới chăng những sợi tơ vàng tuyệt đẹp lên mặt đất bao la, khi những con chim non có những bộ lông sặc sỡ vừa cất tiếng hót véo von chào mừng nàng Rạng đông dời bỏ chiếc giường của Đức lang quân hay ghen để hiện ra ở chân trời xứ C, khi đó hiệp sĩ trứ danh Đôn Kihôtê xứ Mantra dời bỏ chăn ấm đệm êm, cưỡi con tuấn mã trứ danh Rôxinantê băng qua cánh đồng Môntiel xa xưa nổi tiếng”.
Quả thật lúc này Đôn Kihôtê đang đi trên cánh đồng Môntiel. Chàng nói tiếp: “Ôi! Thời đại hạnh phúc, thế kỷ hạnh phúc sẽ được biết tới những chiến công huy hoàng của ta, những chiến công đáng được khắc vào những biển đồng bia đá cho muôn đời sau ghi nhớ. Hỡi những nhà chép sử uyên bác, hãy viết về cuộc đời thần kỳ của ta! Dù người là ai đi chăng nữa, xin chớ quên Rôxinantê tuyệt vời, người bạn đồng hành mãi mãi trung thành của ta”. Rồi như một người thực sự si tình, Đôn Kihôtê lại nói: “Ôi! Công chúa Đulxinêa, chủ nhân của trái tim nô lệ này! Ta rất đau lòng vì nàng đã xua đuổi ta, không cho ta đến trình diện trước sắc đẹp của nàng. Xin nàng hãy đoái hoài kẻ vì nàng đã phải chịu bao nỗi đắng cay”.
Chàng vừa đi vừa nghĩ vẩn vơ hết chuyện này sang chuyện khác, theo đúng kiểu cách, lời lẽ đã học trong sách. Chàng cứ thủng thẳng bước một trong khi trời nắng như thiêu như đốt đến mức đủ làm cho bộ óc chàng tan ra thành nước nếu như nó còn chút ít nào trong sọ.
Hầu như suốt ngày hôm đó, không xảy ra chuyện gì đáng kể trên đường đi. Đôn Kihôtê tức giận vì chàng muốn gặp ngay lập tức đối thủ để thử cánh tay dũng mãnh của mình.
Có tác giả viết chuyện phiêu lưu đầu tiên của chàng đã xảy ra ở cảng Lapixê, có tác giả lại cho rằng cuộc mạo hiểm của chang bắt đầu từ những cối xay gió. Theo chỗ chúng tôi xác minh và tìm thấy trong biên niên sử của xứ Mantra, thì vào lúc hoàng hôn ngày đó, cả chàng hiệp sĩ Đôn Kihôtê lẫn con tuấn mã Rôxinantê đều mệt nhoài và đói lả, Đôn Kihôtê bèn nhìn quanh xem có tòa lâu đài hoặc túp lều nào của những người chăn cừu không để nghỉ chân và kiếm cái ăn cho no bụng thì thấy cách đường cái không xa có một quán trọ;chàng tưởng đâu nhìn thấy một ngôi sao dẫn chàng chẳng những tới trước cổng mà vào tận lâu đài của đáng Cứu thế. Chàng vội thúc ngựa, và tới nơi lúc trời vừa xẩm tối.
Tình cờ lúc đó có hai cô gái đứng chơi trước quán trọ. Hai ả này nom ra chẳng phải thiện nhân. Họ đi Xêviia cùng một đám người lái la và nghỉ trọ tại đây. Đối với chàng hiệp sĩ giang hồ của chúng ta, tất cả những điều suy nghĩ hay những cảnh nhìn thấy đều diễn ra như trong sách chàng đọc. Nhìn cái quán trọ, chàng tưởng tượng ngay ra một tòa lâu đài với bốn ngọn tháp và những mái gác chuông bằng bạc sáng loáng, với cầu rút và hào sâu, với tất cả những cái người ta thường tả. Tới gần quán trọ, mà chàng đinh ninh là một tòa lâu đài, Đôn Kihôtê dừng ngựa lại, chờ xem trên thành có chú lùn nào đứng trên thành thổi kèn báo hiệu có hiệp sĩ đến không. Chờ mãi chẳng thấy, mà con Rôxinantê có vẻ muốn rúc vào tàu ngựa, chàng bèn đi lại và bắt gặp hai cô ả nói trên. Chàng nghĩ ngay đó là hai tiểu thư xinh đẹp hoặc hai phu nhân khuê các đang đứng chơi trước cổng lâu đài. Lúc đó có một anh chàng chăn lợn thổi tù và gọi đàn gia súc về. Đôn Kihôtê lại tưởng đó là một chú lùn báo tin chàng tới và, rất lấy làm hài lòng, chàng tiến lại gần hai cô gái nọ. Thấy Đôn Kihôtê mặc áo giáp, tay giáo, tay khiên, hai ả sợ quá liền chạy vào trong quán trọ. Đôn Kihôtê thấy thế lại nghĩ rằng họ muốn lánh mặt; chàng bèn nhấc lái lưỡi trai bằng bìa cứng để lộ khuôn mặt khô khẳng đầy bụi, rồi nói với một vẻ hòa nhã và bằng một giọng ôn tồn:
– Xin hai tiểu thư chớ lảng tránh và ngại ngùng chi. Những người thuộc dòng hiệp sĩ như tôi không được phép xúc phạm tới bất kỳ ai, nhất là đối với những tiểu thư khuê các như hai nàng.
Trong khi Đôn Kihôtê nói, hai ả cố nhìn vào khuôn mặt bị cái lưỡi trai che lấp. Đến khi thấy gọi mình là tiểu thư, một danh từ thật xa lạ với nghề nghiệp của họ, hai người không nín được cười khiến Đôn Kihôtê phải phát cáu. Chàng nói:
– Tôi thiết tưởng sắc đẹp chưa đủ mà còn cần phải có ý tứ; vô cớ mà cười là vô duyên. Nhưng tôi nói vậy không phải để cho hai nàng phiền lòng, phật ý đâu mà tôi chỉ có một mong ước là được phụng sự hai nàng thôi.
Ngôn ngữ khó hiểu và thái độ của chàng hiệp sĩ khiến hai nàng càng cười dữ và Đôn Kihôtê càng thêm bực mình. Giữa lúc đó, chủ quán bước ra. Đó là một con người đẫy đà. tính tình dĩ hòa vi quý. Nhìn thấy hình thù xấu xí của Đôn Kihôtê và những vũ khí kỳ dị của chàng, nào yên cương, giá, khiên, áo giáp, lão ta cũng muốn cười quá. Nhưng lão lại sợ cái bộ máy chiến tranh đó hơn nên lão vội lấy giọng lễ phép hỏi:
– Nếu hiệp sĩ cần tìm chỗ nghỉ ngơi mà không cần tìm giường ngủ (quả thật trong quán trọ này không có lấy một cái nào cả), chúng tôi xin tươm tất.
Thái độ nhũn nhặn của quan trấn thành (Đôn Kihôtê trông chủ quán hóa ra quan trấn thành), Đôn Kihôtê đáp:
– Thưa quan trấn thành, đối với tôi thế nào cũng được vì rằng “đồ trang sức của tôi là vũ khí, và nghỉ ngơi là chiến đấu không ngừng”[14].
Thấy Đôn Kihôtê xưng hô như vậy, chủ quán nghĩ rằng chàng tưởng mình là người Caxtiia[15]. Lão vốn sinh trưởng ở Anđaluxia, tại vùng biển Xanlucar, là một tay giảo quyệt không kém gì Cacô và tinh nghịch như một chú học trò hay một thị đồng, lão bèn trả lời:
– Nếu vậy, “giường ngủ của ngài phải là đá cứng, giấc ngủ của ngài là thức thâu đêm”[16]. Nếu quả như thế xin mời ngài xuống ngựa. Trong túp lều tranh này, chắc chắn ngài sẽ có dịp thức cả năm liền, chứ nói chi một tối.
Rồi lão tới giữ bàn đạp yên ngựa; Đôn Kihôtê bước xuống một cách khó khăn mệt nhọc, như một người từ sáng tới giờ chưa có hạt gì vào bụng. Chàng dặn chủ quán phải chăm sóc con Rôxinantê vì nó là con ngựa hay nhất trên đời này.
Lão chủ quán nhìn con vật thấy nó cũng không đến mức như chủ nhân nó khoe thậm chí không được nửa phần. Lão dắt nó vào chuồng rồi quay lại xem ông khách mới có cần gì không thì thấy hai cô gái đang giúp Đôn Kihôtê cởi bỏ bộ áo giáp và vũ khí – lúc này họ đã làm lành với chàng rồi. Sau khi đã cởi được hai tấm giáp che trước ngực và lưng, họ loay hoay mãi không sao rút được tấm giáp che cổ và cái mũ có những dải màu lục thít chặt vào đầu. Họ muốn cắt những dải đó vì không gỡ được nút nhưng Đôn Kihôtê không chịu; thế là cả đêm, chàng cứ đội sùm sụp chiếc mũ trên đầu, trông thật tức cười. Nhìn hai cô gái cởi giáp cho mình, chàng cữ ngỡ đó là hai phu nhân quý phái ở trong lâu đài, chàng bèn cất giọng, đọc mấy câu thơ duyên dáng trong bản tình ca:
– “Chưa có một hiệp sĩ nào được những người đẹp chăm sóc chu đáo như Đôn Kihôtê khi chàng từ quê nhà ra tới đây. Có các vị tiểu thư chăm sóc chàng và các nàng công chúa trông coi Rôxinantê của chàng”. Thưa hai bà, chàng nói tiếp, Rôxinantê là tên con ngựa của tôi, còn Đôn Kihôtê xứ Mantra chính là tôi. Thực ra tôi không muốn xưng danh tước làm gì, để sau đây những chiến công của tôi sẽ giới thiệu tôi. Nhưng vì tức cảnh mà tôi đọc mấy câu tình ca của Lanxarôtê, do đó hai bà đã sớm biết tên tôi. Nhưng lúc đó hai bà sẽ truyền lệnh cho tôi và khi đó, cánh tay dũng mãnh này sẽ sẵn sàng làm đẹp lòng hai bà.
Hai cô gái nó sinh ra đâu phải để nghe những lời nói văn hoa đó nên cứ làm lặng thinh. Họ chỉ hỏi chàng có ăn gì không?
– Có gì tôi ăn nấy, Đôn Kihôtê đáp, thế nào cũng xong.
Hôm đó là ngày thứ sáu, trong quán chẳng có gì ngoài mấy con cá nhép. Chủ quán hỏi Đôn Kihôtê có ăn thứ đó không, vì chẳng còn loại nào khác.
– Nhiều cá nhỏ bằng một con cá lớn, Đôn Kihôtê đáp, cũng như mười tờ giấy một đồng bằng một tờ mười đồng. Vả chăng, có khi càng nhỏ lại càng ngon, ví như thịt bê mềm hơn thịt bò, thịt dê non ngon hơn dê già. Thôi, cứ có gì ngon mang ra đây kẻo làm cái nghề vác nặng này mà đói bụng thì chẳng kham nổi.
Lão chủ bày bàn ra trước quán trọ cho mát rồi bưng ra một đĩa cá kho không ra kho, nấu chẳng ra nấu, một cái bánh mì đen thui và rắn như vũ khí của chàng hiệp sĩ. Đôn Kihôtê ngồi vào bàn ăn. Đến lúc này thật không thể nhịn được cười: cái mũ sùm sụp trên đầu khiến chàng không sao đưa được thức ăn vào mồm, và hai cô gái phải ngồi bón cho chàng. Đến lúc uống thì chịu chết: cuối cùng chủ quán phải kiếm một cái cần cho Đôn Kihôtê ngậm một đầu, còn đầu kia lão đổ rượu vào. Chàng hiệp sĩ làm tất cả những việc đó một cách nhẫn nại, chỉ lo giữ những dải mũ khỏi đứt. Vừa lúc đó, một anh hoạn lợn tới, vừa đi vừa thổi ống trúc. Sự kiện này càng khiến Đôn Kihôtê tưởng rằng mình đang ở một tòa lâu đài nào đó, ngồi ăn có dàn nhạc. Và cá nhép đối với chàng là món hương ngư, bánh mì làm bằng tiểu mạch, hai cô gái là những phu nhân quý phái, chủ quán là chủ nhân lâu đài. Chàng lấy làm hài lòng về quyết định ra đi của mình. Duy còn điều này làm chàng áy náy là tới nay, chàng vẫn chưa được phong tước hiệp sĩ, mà chưa gia nhập giới hiệp sĩ thì chưa thể nói là chính thức đi phiêu lưu giang hồ được.
Chương 3
Đôn Kihôtê được phong tước hiệp sĩ như thế nào?
Ý nghĩ đó làm Đôn Kihôtê thấy bứt rứt, chàng ăn qua loa cho xong bữa rồi mời chủ quán vào chuồng ngựa, phục xuống trước mặt hắn và nói:
– Thưa hiệp sĩ dũng cảm, tôi sẽ không đứng dậy chừng nào ngài chưa chấp nhận lời thỉnh cầu của tôi. Việc làm của ngài sẽ được ca tụng và mang lại lợi ích cho người đời.
Nhìn Đôn Kihôtê quỳ dưới chân và trước những lời lẽ như vậy, chủ quán lúng túng không biết ăn nói ra sao. Một bên năn nỉ mời đứng dậy, một bên khăng khăng không nghe, cuối cùng chủ quán đành phải nhận lời.
– Thưa ngài, tôi biết có thể trông cậy vào tính hào hiệp của ngài, Đôn Kihôtê nói tiếp; điều thỉnh cầu của tôi, mà ngài đã vui lòng chấp nhận, như sau: xin ngài cho phép tôi được thức cả đêm trong tiểu giáo đường của quý lâu đài để chờ thụ phong và sáng sớm mai, xin ngài phong tước hiệp sĩ cho, điều mà tôi vẫn mong mỏi để tôi có thể đi chu du thiên hạ, tìm những chuyện phiêu lưu mạo hiểm, cứu khốn phò nguy, làm nhiệm vụ của những người hiệp sĩ giang hồ mà tôi hằng mong ước.
Như trên đã nói, lão chủ quán là một tay bợm già. Mới đầu, hắn chưa tin hẳn là Đôn Kihôtê mất trí, nhưng sau khi nghe chàng nói, hắn không còn nghi ngờ gì nữa. Và để trêu Đôn Kihôtê một mẻ cho vui, hắn làm ra vẻ tán thành. Hắn bảo Đôn Kihôtê rằng ước mong thỉnh cầu của chàng là chính đáng, rằng những hiệp sĩ chân chính, diện mạo khôi ngô như chàng, đương nhiên phải có những hoài bão lớn như vậy. Hắn huyênh hoang rằng thời trẻ, hắn cũng đã từng làm cái nghề vinh quang này, đi khắp đó đây tìm kiếm chuyện phiêu lưu mạo hiểm: hắn đã tới vùng Perchen ở Malaga, các hòn đảo Riaran, Compax ở Xêviia, máng dẫn nước ở Xêgôvia, vườn Ôliu ở Valenxia, Rônđiia ở Granađa, bãi biển Xanlucar, sở nuôi ngựa ở Corđôba, các quán rượu ở Tôlêđô[17], và còn nhiều nơi khác nữa, đấy là hắn cũng gây ra những chuyện rắc rối như đi mò đàn bà góa, tán tỉnh gái tân, lừa dối trẻ thơ, khiến hầu hết các tòa án ở Tây Ban Nha đều nhẵn mặt hắn; cuối cùng, hắn trở về tòa lâu đài này, sống bằng tài sản của mình và của người khác, tiếp đón tất cả các hiệp sĩ giang hồ, bất kể phẩm giá và hoàn cảnh của họ, vì hắn quý mến họ và cũng vì họ chia sẻ tiền nong với hắn để đền bù tấm lòng tốt của hắn.
Hắn nói thêm rằng trong tòa lâu đài này không có tiểu giáo đường để thức đêm chờ thụ phong vì hắn đã phá đi chờ xây lại cho to đẹp hơn, nhưng hắn biết rằng khi cần, có thể thức ở đâu cũng được và đêm nay, Đôn Kihôtê làm việc đó ngay trong sân lâu đài chờ sáng mai sẽ tiến hành những nghi lễ cần thiết. Chàng sẽ được phong tước và trở thành hiệp sĩ như bao hiệp sĩ khác trên đời này.
Hắn lại hỏi Đôn Kihôtê có tiền không. Đôn Kihôtê trả lời là không vì chưa thấy sách nào nói hiệp sĩ giang hồ phải mang theo lệ phí cả.
– Ngài lầm rồi, chủ quán nói, sở dĩ sách không đề cập tới vì tác giả cho rằng không cần thiết phải nói lên một điều quá hiển nhiên là phải mang theo tiền và áo sơmi. Chớ nên vì thế mà nghĩ rằng các hiệp sĩ không mang. Ngài có thể chắc chắn rằng tất cả những hiệp sĩ giang hồ có tên tuổi trong sử sách đều mang rất nhiều tiền phòng khi hữu sự: họ còn mang theo cả sơmi và một hộp thuốc để rịt vào các vết thương, vì một khi đánh nhau bị thương giữa nơi đồng không mông quạnh, hỏi rằng tìm đâu ra người chữa chạy, trừ phi có một ông bạn là pháp sư phái một thị nữ hay một chú lùn nào đó cưỡi mây đạp gió mang đến cho một lọ nước thần, uống một giọt là vết thương lành ngay tức khắc như không hề xảy ra đau đớn bao giờ.
Nhưng vì việc đó không xảy ra nên các hiệp sĩ vẫn phải bảo giám mã của họ mang theo tiền và các thứ cần thiết khác như bông cuốn và thuốc cao. Còn hiệp sĩ nào không có giám mã theo hầu – điều này cũng hiếm thôi – thì bản thân họ có một cái túi hai ngăn trong có đầy đủ những thứ đó, đeo một cách kín đáo ở hông ngựa, như thể túi để vật gì quan trọng lắm.Ngoài trường hợp này ra, các hiệp sĩ giang hồ không được đeo túi. Bởi vậy, tôi khuyên ngài, hơn nữa, tôi ra lệnh cho ngài như ra lệnh cho đứa con đỡ đầu, phải làm ngay và không được đi đâu nếu không có tiền và không có sự chuẩn bị phòng thân. Ngài sẽ thấy điều đó hay vô cùng.
Đôn Kihôtê hứa làm ngay. Tới đây chủ quán bảo chàng vào trong sân quán trọ để chờ phong tước. Đôn Kihôtê thu nhặt vũ khí xếp thành một đống trong cái hang cho súc vật ăn ở gần giếng, rồi tay khiên, tay giáo, với một vẻ hiên ngang, chàng bắt đầu đi đi lại lại trước cái ang. Lúc này trời đã tối hẳn.
Chủ quán vào nhà kể với đám khách trọ sự điên rồ của Đôn Kihôtê, về đêm chờ thụ phong của chàng và lễ phong tước mà chàng hiệp sĩ đang mong đợi. Mọi người lấy làm lạ kéo nhau ra xem. Họ đứng từ xa nhìn lại, thấy chàng tư thế ung dung, khi đi bách bộ, lúc tựa vào ngọn giáo, đứng nhìn đăm đăm đống vũ khí. Đêm đó, trăng sáng vằng vặc khiến mọi cử chỉ của Đôn Kihôtê đều trông rõ mồn một.
Lát sau, có một bác lái la từ trong quán ra sân định cho la uống nước, muốn vậy, phải bỏ đống vũ khí xếp trong cái ang. Thấy có người tới, Đôn Kihôtê thét to:
– Hỡi hiệp sĩ liều lĩnh định tới gần những vũ khí của con người dũng cảm nhất trong số những người mang gươm! Bất kể người là ai, hãy coi chừng việc làm của mình và chớ đụng vào nếu không muốn mất mạng vì sự liều lĩnh đó.
Bác lái la nào có để ý đến lời nói của Đôn Kihôtê. Kể ra bác ta cũng không nên cưỡng thì hơn vì điều đó chỉ có lợi cho bản thân. Trái lại, bác ta bê cả đống vũ khí quẳng ra xa. Thấy vậy, Đôn Kihôtê ngước mắt lên trời, tập trung suy nghĩ vào nàng Đulxinêa và nói:
– Nương tử ơi, nàng hãy hỗ trợ cho kẻ nô lệ này trong cuộc đọ sức đầu tiên; xin nàng hãy ủng hộ và che chở cho trong giây phút nghiêm trọng đầu tiên này[18].
Nói rồi, chàng bỏ chiếc khiên xuống, hai tay cầm giáo phang vào đầu bác lái la một nhát mạnh đến nỗi bác ta lăn kềnh ra đất, và nếu Đôn Kihôtê bồi thêm một nhát nữa, chắc chắn chẳng cần mời thầy thuốc đến làm gì. Xong việc, Đôn Kihôtê khuân đống vũ khí xếp lại tử tế trong cái ang, tiếp tục đi bách bộ bình thản như trước. Lát sau, có một người khác ra sân định cho lừa uống nước, không biết chuyện đã xảy ra vì bác lái la bị đòn vẫn nằm chết giấc. Thấy có người đến bê đống vũ khí của mình đi, chẳng nói chẳng rằng và cũng chẳng cầu cứu ai nữa, Đôn Kihôtê bỏ chiếc khiên xuống như lần trước, giơ cao ngọn giáo phang luôn mấy cái, khiến cho cái đầu của anh chàng này vỡ bốn chỗ. Nghe tiếng kêu cứu, chủ quán và mọi người chạy ùa tới. Trước tình hình đó, Đôn Kihôtê một tay ôm khiên, tay kia nắm đốc gươm, nói:
– Hỡi nương tử xinh đẹp, nguồn sức mạnh cho trái tim yếu đuối của ta. Đã đến lúc nàng phải tiếp sức cho vì kẻ hiệp sĩ si tình này đang gặp một chuyện quá lớn lao.
Nói xong, Đôn Kihôtê cảm thấy mình có một sức mạnh ghê gớm, giả sử tất cả các lái la trên đời xông tới, chàng cũng không lùi nửa bước. Bạn bè của hai bác lái la thấy cảnh tượng như vậy bèn ném đá như mưa vào người Đôn Kihôtê. Chàng hiệp sĩ cứ đứng yên dùng cái khiên che thân, không dám rời cái ang và đống vũ khí nửa bước. Chủ quán cố hét to bảo họ dừng tay vì, như y đã nói, Đôn Kihôtê là một kẻ điên rồ, mà đã điên thì có thể giết người nhưng không bị tội. Đôn Kihôtê còn hét to hơn, gọi cả bọn là lũ hèn nhát, phản phúc, còn lão quan trấn thành là một tên đê tiện, một hiệp sĩ bẩm sinh xấu xa để cho người ta đối xử tồi tệ với các hiệp sĩ giang hồ, và nếu như chàng được phong tước hiệp sĩ rồi chàng sẽ cho biết tay.
– Nhưng thôi, Đôn Kihôtê nói, ta cũng không thèm chấp những kẻ thô bạo súc sinh. Có giỏi thì cứ lại đây ném đá và đánh ta đi. Các ngươi sẽ phải trả giá đắt vì đã tỏ ra ngu xuẩn và láo xược.
Câu nói cứng cỏi và hiên ngang của Đôn Kihôtê khiến mọi người phải chùn, thêm vào đó là những lời khuyên can của chủ quán khiến cả bọn dừng tay, không ném đã nữa. Đôn Kihôtê mặc cho họ khiêng hai người bị thương đi, tiếp tục canh gác đống vũ khí bình thản và ung dung như trước.
Lão chủ quán thấy ngại những trò của Đôn Kihôtê và muốn rút ngắn lại bằng cách sớm phong tước cho chàng để tránh những chuyện lôi thôi khác. Hắn bèn tiến lại gần Đôn Kihôtê, xin lỗi về sự láo xược của đám người thấp hèn mà hắn không hề biết, rằng những kẻ đó đã bị trừng trị thích đáng về sự liều lĩnh đã gây ra. Hắn nhắc lại rằng trong lâu đài không có tiểu giáo đường nhưng điều đó cũng không cần thiết. Theo chỗ hắn biết, tất cả nghi lễ phong tước hiệp sĩ chỉ bao gồm việc đập mấy nhát vào gáy và lưng người được thụ phong bằng sống gươm, và việc đó có thể tiến hành ngay giữa cánh đồng. Hắn nói thêm là đêm chờ thụ phong đã kết thúc vì Đôn Kihôtê đã thức quá bốn tiếng đồng hồ trong lúc chỉ cần có hai tiếng. Nghe chủ quán nói, Đôn Kihôtê tin ngay; chàng tỏ ra sẵn sàng tuân theo và yêu cầu quan trấn thành làm càng nhanh càng tốt. Một khi đã được phong tước hiệp sĩ, nếu còn bị tấn công, chàng sẽ tiêu diệt hết cả lũ trong lâu đài trừ những người mà quan trấn thành yêu cầu tha cho.
Biết thân biết phận, quan trấn thành vội vã đi lấy cuốn sổ ghi tiền rơm và lúa mạch bán cho đám lái la, bảo một chú bé cầm mẩu nến rồi gọi hai cô gái đã nói ở trên cùng tiến lại chỗ Đôn Kihôtê; hắn ra lệnh cho chàng quỳ xuống, rồi lẩm nhẩm đọc cuốn sổ như thể người ta cầu kinh, hắn vung tay dùng sống kiếm nện hai nhát khá mạnh vào gáy và lưng Đôn Kihôtê, mồm vẫn lẩm nhẩm. Xong việc, chủ quán bảo một cô đeo gươm cho Đôn Kihôtê. Cô này vừa làm vừa cố giữ vẻ nghiêm nghị vì quả thật lễ phong tước này đáng nực cười; tuy nhiên đã được mục kích những chiến công của chàng hiệp sĩ mới này nên mọi người đâm chùn. Đeo gươm cho Đôn Kihôtê, cô nói với chàng:
– Cầu Chúa phù hộ cho chàng gặp nhiều may mắn trong những cuộc đọ sức. Đôn Kihôtê hỏi tên cô nàng để biết được người mình hàm ơn là ai và để sau này, khi lập được chiến công bằng cánh tay dũng cảm của mình, sẽ dành cho cô một phàn vinh quang. Cô khiêm tốn nói rằng tên cô là Tôlôxa, con một bác chữa giày ở phố Xantrô Biênaia, tỉnh Tôlôxa, rằng ở bất cứ đâu, cô cũng sẵn sàng hầu hạ chàng. Đôn Kihôtê cảm động nói:
– Xin nàng hãy vì tôi mà vui lòng lấy tên là Đônha[19] Tôlôxa.
Cô gái nhận lời. Đến lượt cô kia xỏ đinh thúc ngựa. Đôn Kihôtê cũng lại hỏi tên. Cô đáp là Môlinêra, con một người xay bột lương thiện ở Antêkêra. Đôn Kihôtê cũng lại yêu cầu nàng lấy tên là Đônha Môlinêra và hứa sẽ đền ơn nàng.
Sau những nghi lễ có một không hai được cử hành một cách nhanh chóng, Đôn Kihôtê muốn ra đi ngay tìm kiếm những chuyện phiêu lưu mạo hiểm. Chàng vội thắng yên cương cho con Rôxinantê, nhảy phắt lên rồi ôm lấy chủ nhân tòa lâu đài, cảm ơn vì đã được phong tước và còn nói nhiều câu lạ lùng không sao kể siết. Thấy chàng ra đi, chủ quán mừng rơn, và đáp lễ đôi lời ngắn ngủi nhưng cũng rất vui vẻ, và chẳng buồn hỏi tiền trọ nữa, lão mời chàng đi ngay.
( Còn tiếp)