
Dù đã quen chạm trán với nguy hiểm từ lâu, Hùng vẫn hồi hộp. Nó cảm thấy mắc hợm để ông già nhốt lại trong căn buồng tối tăm. Cái lối thoát lên trần nhà không làm nó yên tâm chút nào. Hùng chỉ mong ông già về sớm. Nó định chờ ông ta về là sẽ đi khỏi đây. Đối với nó, vỉa hè và sân ga quen thuộc hơn, an toàn hơn. Nó sẽ tìm việc làm, có thể sẽ đến săn sóc người bố nuôi những lúc rỗi rãi và làm chủ cuộc đời mình chứ không thể tiếp tục ẩn náu như con chuột thế này mãi được.
Ba giờ chiều, ông già mới về, mệt mỏi, mặt càu cạu. Nhưng chỉ một lát, ông ta tươi tỉnh ngay. Ông vui vẻ bảo Hùng:
– Con nóng ruột lắm hả? Biết làm thế nào được khi phải trốn tránh. Nhưng ta sẽ tặng con món quà này…
Ông đặt cái túi xách tay xuống nền nhà, lấy ra một chiếc sơ mi ca rô và một quần vải chéo may khá đẹp. Ông đưa cho Hùng, bảo mặc thử. Vừa quá, cứ như là đi cắt may vậy.
– Đêm nay con sẽ được ra ngoài, sẽ được rong phố. Ta không muốn con ăn mặc như lũ bụi thế kia. Hãy chịu khó ẩn nấp ở đây một thời gian ngắn rồi ta sẽ cho con đến chỗ khác. Lúc đó mọi chuyện chắc đã ổn cả rồi!
Trong chiếc túi xách có bánh mì kẹp pa-tê, mấy quả chuối và một gói lạc rang, một chai rượu màu xanh.
– Đây là bữa chiều của hai bố con. Ăn đi!
Đường phố lên đèn được một lúc, ông già bảo Hùng:
– Đêm rồi. Đêm là của con – Ông ta cười – Chúng ta là những con chim đêm – Như lỡ lời, ông ta chữa lại – Đấy là ta muốn nói đến hoàn cảnh của con hiện nay. Ta sẽ tìm cho con một việc làm tử tế, kiếm ăn được. Chẳng phải là ta không nuôi nổi con đâu, nhưng ta muốn con ta phải được sống đàng hoàng, phải không con? Một thời gian ngắn thôi, chẳng ai gây phiền phức cho con được nữa. Bây giờ ta nhờ con một việc nhỏ này, con giúp ta nhé?
Ông ta lấy trong túi xách ra hai cái bánh nướng gói lại trước mắt Hùng. Rồi ông rút ví ra, đưa Hùng một tờ giấy mười đồng còn mới:
– Việc nhỏ thôi: Ta có một người bà con bị ốm, một người bà con xa, nhưng quá nghèo. Bà ta bị một bệnh kinh niên, không làm ăn được. Mà con cái thì đông, ông chồng lại nát rượu. Ta vẫn giúp đỡ bà ấy. Nhưng phiền quá, phiền cả mình lẫn người ta. Mình chẳng có gì ra tấm ra miếng để cho, người ta thì xấu hổ. Con đưa món quà này đến số nhà 174 phố S, trước nhà có một cây cơm nguội bị gãy sau trận bão vừa rồi. Con gõ cửa, sẽ có người ra, con nói: “Chị Thảo gửi quà cho các em…”. Chị Thảo là người thân của gia đình, ta nói chệch vậy họ mới chịu nhận. Thương quá, bầy con quanh năm nhịn thèm. Sáng nay, ta vừa biết là bà mẹ lại bị cúm hay sốt xuất huyết gì đó. Ta sẽ đến thăm bà vào ngày mai, nhưng làm sao mỗi ngày gửi đến cho lũ trẻ chút gì đó. Ta hay động lòng, nhưng trời lại bắt ta nghèo khó. Còn những lũ giàu tiền thì nghèo lòng trắc ẩn, phải không con?
Ông già lại mở gói bánh ra. Ông ta lấy dao nhíp cắt hai cái bánh nướng thành những miếng nhỏ trước mắt Hùng. Vừa làm ông ta vừa nói: “Dạo này bọn gian thương hay bán đồ giả. Có khi vỏ bánh nướng bên ngoài nhưng ruột lại là khoai lang!”. Ông lấy tờ mười đồng trong tay Hùng, đặt lên bánh, gói tất cả lại, lấy một sợi dây nhỏ hình chữ thập rồi thắt nút như người ta gói thuốc bắc.
Hùng cầm trong tay gói bánh, thản nhiên leo cầu thang xuống đất. Nó cẩn thận nấp sau một cái cột xem có ai để ý đến mình không rồi bình tĩnh bước ra phố. Trên đường đến phố S, nó phải rẽ hai lần. Cả hai lần nó đều giả vờ đứng lại để xem có đuôi không. Yên trí, nó đi tới. Việc làm và những lời nói nhân từ của ông già làm Hùng cảm động. Kể ra, lúc đầu Hùng có nghi ngại, không biết ông già có thể giấu cái gì trong hai chiếc bánh. Nhưng ông đã cắt bánh trước mắt Hùng. Con người tử tế và ý tứ làm sao, cho bà con một gói quà thôi mà cũng cẩn thận thế.
Hùng tìm đúng số nhà, gõ cửa. Cánh cửa gỗ mở ra. Một cô gái chừng hai mươi tuổi, đứng chắn kín ở cửa hỏi Hùng:
– Có việc gì thế em?
– Chị Thảo gửi quà cho các em…
– Vậy à? – Cô gái cầm gói quà, nhìn rất kĩ mối buộc. Chị ta nhìn lại một lần nữa rồi bảo Hùng – Cảm ơn em. Nhờ em đưa cho chị Thảo cái này – cô ta quay vào lấy đưa cho Hùng một gói sáu bao diêm – em bảo nhà vừa mua được diêm mậu dịch, chị lấy một ít mà dùng. Khổ, chị vẫn kêu một tuần nay không có diêm nhóm bếp.
Hùng ra về. Nó đã làm xong việc ông già nhờ. Bây giờ được ra ga chơi một chút, tìm mấy thằng lỏi quen kháo chuyện thì thú vị đấy. Nhưng hẵng về nhà, mai đi cũng được. Nó rẽ vào một phố mất điện, đi về ngôi nhà đổ.
***
Nam từ cơ quan chú Quảng về, nấu cơm xong thì nhìn thấy bố. Bố đen như thợ lò, nhưng béo và khỏe ra. Nam nhận ra bố từ đằng xa, cách nhà đến hàng chục cây phượng. Từ trên gác hai nó phát hiện ra ngay dáng đi tất tả, quả quyết của bố. Như mọi lần thì nó chạy ngay xuống đường rồi cứ thế mà đánh đu vào tay bố, bắt bố “xách” về tận nhà như xách một cái túi. Nhưng Nam lùi ngay vào nhà, lúi húi bên nồi cơm đã ghế xong. Nó châm thêm một bếp dầu nữa, bắc nồi, đổ nước luộc mì. Nếu kịp, bố về có mì ăn ngay, bố sẽ ngạc nhiên, thế là bố quên hết mọi chuyện. Nhưng tiếng dép của bố đã lê ngoài cầu thang. Tiếng dép ấy thì không lẫn được. Hai tai Nam nóng nhừ.
Cửa mở.
– Bố! – Nam đứng dậy hai tay vẫn còn cầm đôi đũa.
– Con nấu cơm đấy à? Cho bố ăn với, mì cũng được. Chà, có mì là tốt rồi.
Bố vứt cái túi du lịch xuống giường, rút khăn lau mặt, lau tay rồi ngồi xuống ghế. Ngực áo bố phanh ra, mồ hôi nhễ nhại.
– Mẹ với em có khỏe không? Mùa khá chứ? Con thỏ đen thế nào rồi? À này, hôm trước bố nhìn thấy ở Quý Kim có nhà nuôi một con thỏ nặng đến bốn kí lô đấy.
Bố cầm khăn ra vòi nước rửa mặt. Nam ghé đầu ra cửa nhìn theo bố. Ngang chỗ nhà bác Thịnh, bố đứng lại bên cửa sổ hỏi chuyện bé Liên (chúng nó vẫn bị nhốt trong nhà từ khi bác Thịnh lấy lại được đồ đạc, mà lần này những hai cái khóa cơ).
Ăn cơm xong, bố hỏi:
– Nào, cậu cả, cậu kể tôi nghe, chuyện gì đã xảy ra? Nam kể một thôi.
– Suýt nữa nhá – Bố nói – Nhưng cũng được một bài học. Bây giờ bố thử đặt ra mấy chữ nếu, bố hỏi con nhé. Nếu… bác Thịnh không lấy lại được đồ đạc? Nếu Sáu Xồm tìm thấy trong tận cùng ngăn kéo của bố tấm bản đồ nhà máy đang mở rộng? Nếu con và Hùng Lé cứ trôi ra Biển Đông?… Chuyện gì sẽ xảy ra nào? Toàn những chuyện tày đình cả. Nhưng thôi, ta nói đến chuyện Hùng Lé. Con thấy thế nào?
– Bố cho con ở lại thành phố với bố một thời gian nữa.
– Để làm việc chú Quảng nhờ?
– Vâng ạ.
– Được. Bố nói thêm với con. Đâu phải vì chú Quảng nhờ, mà bố thấy đó là việc của con. Bố sẽ giúp con. Nhiều người tốt bụng sẽ giúp con. Nhưng tối nay bố sẽ dẫn con đi xem phim cái đã. Ưng chứ?
Và hôm ấy, Hùng Lé ra đi mà không có cái đuôi vì cái đuôi đang ngồi trong rạp Lê Văn Tám theo dõi chàng Rôbinxơn dũng cảm. Trên đường từ rạp về, Nam đã mạnh dạn hơn. Nó cầm chặt tay bố. Cả hai đều bước rất chậm. Chợt bố hỏi:
– Theo con thì có lẽ Hùng đang trốn trong ngôi nhà đổ với người đàn ông à?
– Khi nhìn thấy cái đầu của ai đó thụt vào trong khung cửa sổ, con nghĩ ngay đến Hùng Lé.
Bố đưa tay xem đồng hồ:
– Bây giờ còn sớm, hai bố con ta hẵng đến thẳng ngôi nhà đổ. Bố sẽ dẫn con vào nhà ông ta đàng hoàng. Để bố nghĩ một cái cớ nào đó… Được rồi, bố thương lượng với ông ta cho tiểu khu mượn miếng đất đủ kê một bàn bóng bàn cho trẻ em, ngay trong khu vực ông ta trông coi. Chắc ông ta cũng biết bố là ủy viên ban đại diện nhà.
Hai bố con phải quẹt gần hết một bao diêm mới lần được lối lên cầu thang. Đèn trong nhà tắt, ông già đang ngả lưng trên chiếc ghế xếp, điếu thuốc lá lập lòe trên môi. Ông ta mở cửa châm đèn, trải một chiếc chiếu xuống đất mời khách ngồi. Ông kêu ca với “ban đại diện” rằng trẻ con thường hay vào đây nhặt trộm gạch vụn, có đứa còn lấy gạch ném ông, một lão già yếu đuối, cô đơn. Rồi ông bắt đầu ca cẩm về giá cả thị trường, về đồng lương ít ỏi, về cuộc sống buồn chán của mình và cuối cùng là chửi bọn mậu dịch viên cửa quyền, ăn bớt.
– Quý ông xem, suốt ngày ngồi một chỗ, tự đấm lưng cho mình! Cơm cũng không buồn nấu lấy mà ăn nữa – Ông ta ngước mắt lên trần – Lại không biết bao giờ cái của nợ này nó sụp xuống đầu. Lúc ấy thì tôi bẹp lại như con gián. Ái chà, chẳng có hớp nước mà mời khách!
Nam thấy ông ấy nói rất to, to quá mức cần thiết. Vì chỉ có ba người trong gian phòng hẹp này thì nói thầm cũng nghe được rồi. Bố ngồi nghe, mỉm cười, vẻ ái ngại:
– Sao bác không tìm một đứa con nuôi cho nó vui nhà?
– Quý ông không nói bỡn đấy chứ? Con tôi đẻ rứt ruột ra còn chẳng ăn ai nữa là! Quý ông xem, hai thằng con trai mà bây giờ thế này đây!
– Xin lỗi bác, quý danh bác là gì nhỉ? – Bố hỏi.
– Tôi tên là Mì ạ, giấy tờ tôi đã nộp công an hộ tịch từ hôm xuống đây.
– Vâng, bác Mì này, hay là tôi bảo cháu thỉnh thoảng đi lại với bác cho vui, xem có đỡ đần được gì không? Cháu mới học lớp sáu thôi, cũng rỗi. Nam! Liệu con có khiêng nước hộ bác được không?
Từ hôm gặp và cho đến cả hôm nay nữa, Nam chưa hề có cảm tìh gì với ông ta. Nó thấy ông ta thế nào ấy. Nó im lặng. Nhưng rồi chợt hiểu mục đích của bố, nó trả lời:
– Dạ, được ạ! Ông già giãy nảy:
– Xin cảm ơn lòng tốt. Nhưng nước, chao ôi là nước, mỗi ngày tôi dùng hết bao nhiêu? Hai cặp lồng, vâng chỉ thế ạ. Một để rửa mặt, một để nấu cháo, còn nấu cơm thì chỉ hết nửa cặp lồng thôi.
Rồi ông ta quay sang khen Nam nức nở:
– Cậu bé ngoan quá đi mất. Chà, trông giống bố như hai giọt nước vậy.
Thực ra ai cũng nói Nam giống mẹ hơn là giống bố.
– Cậu thỉnh thoảng sang chơi thì còn gì bằng. Nhưng nguy hiểm là cái cầu thang và dãy tường sắp đổ. Thế nào cũng có ngày nó đè gãy lưng lũ trẻ cạy gạch trộm cho mà xem. Công ty lại kỷ luật tôi mất thôi!
Bố Nam chuyển sang mục đích cuộc thăm. Ông già từ chối, giọng ôn tồn:
– Kể ra ban đại diện quan tâm đến các cháu như vậy thì quý hóa quá, nhưng ông thông cảm cho, ở đây cái gì cũng chực đổ xuống cả. Để các cháu vào, tôi không an tâm được.
Bố nói rằng rất thông cảm điều đó và xin phép ra về. Lúc xuống cầu thang, vì hết diêm, nên hai bố con đành phải nhích từng bước một. Nam đâu ngờ rằng, nấp sau một bụi tầm gửi mọc sau cánh cửa căn buồng, Hùng Lé đã nhìn thấy, đã nghe hết đầu đuôi câu chuyện. Khi ngang qua bụi cây, suýt nữa thì Nam giẫm phải bàn chân nó.
Khi biết chắc là bố con Nam đã đi ra ngõ, Hùng đẩy cửa vào buồng.
Ông già nhanh nhẹn liến thoắng hẳn lên. Ông ta săn đón:
– Con có nghe ba nói chứ? Ba cố tình nói to lên là để cho con biết nhà có người. Đúng là thằng bé nhà quê ba thấy hôm qua.
Hùng đưa ông mấy bao diêm cô gái gửi. Ông cầm lấy vui vẻ:
– Có diêm à? Vậy là tốt! Con của ba ngoan quá. Nhưng hẵng chuồn khỏi đây ngay đã, con ạ. Ba sẽ đưa con đến nhà chị Thảo… mèo đã ngoáy đuôi vào hang chuột rồi, chuột phải đi thôi.
Khoảng mười lăm phút sau, hai “bố con” xuống vườn, đứng lại một lúc rồi lần lượt chui qua cái lỗ thủng ở chân tường, biến mất trong những căn nhà bát úp kéo dài đến tận phố bờ sông.
Thế là từ hôm đó Hùng ở lại với “chị Thảo”. Chị Thảo thực ra là một người đàn bà trạc bốn lăm, năm mươi tuổi gì đó. Ông già bảo Hùng gọi bà ta là má rồi căn dặn:
– Má là người tốt bụng. Má sẽ chăm sóc con hộ ta cho đến ngày con có thể ngang nhiên đi lại trên đường phố mà không sợ ai. Má nhiều việc, lại phải đi đây đó luôn, con nên cố gắng giúp đỡ má.
Ông già hôn chụt một cái rõ kêu vào má “chị Thảo” rồi ra phố, nhanh như một con sóc.
Nếu ông già là một người lắm lời, hay dùng những câu âu yếm để khen ngợi, chuyện trò với Hùng Lé thì má Thảo lại khác hẳn. Suốt ngày má chẳng nói một câu, đôi mắt luôn lo âu, miệng thì lẩm bẩm tính toán điều gì. Từ ngày Hùng đến, bà ta giữ riết Hùng trong nhà và hình như bà không biết làm bất cứ việc gì nữa. Cơm nước, giặt giũ, quét dọn, tất cả đều do Hùng làm. Hùng tự hỏi: Không biết trước khi Hùng đến, bà ta có ăn không, có tắm giặt không? Nó muốn bỏ đi, đi thật xa, không trở lại với ông già nữa. Nhưng rồi nó tự nhủ: “Hẵng để một thời gian nữa xem sao!”. Không phải nó thích buông thả đời cho số phận, mà là vì không có cách nào hơn.
Làm việc vặt nhiều, mất tự do, không được nói, được đùa, nhưng bù lại, má Thảo cho ăn rất khá. Bữa nào nó cũng phải xào rán một thứ gì. Nhà ở thì đàng hoàng, rộng rãi, không chê được. Ba phòng thênh thang, nhà tắm hố xí máy và bếp riêng. Má Thảo bán hàng khô. Hành, tỏi, lạc nhân và các thực phẩm linh tinh khác. Nhưng hình như hàng của má đắt giá so với những cửa hàng khác trong phố. Nên Hùng thấy rất ít khách đến mua. Có ngày chỉ bán được vài đồng, má Thảo không lấy làm buồn về chuyện đó. Thỉnh thoảng má lại kêu nhức đầu, đóng cửa hàng im ỉm suốt ngày. Đi ra phố, trở về, lúc má vui như hội, lúc buồn thiu.
Còn ba thì biệt tích, không hề quay lại lần nào. Được dăm hôm, má Thảo bảo Hùng:
– Con sửa soạn đi Hà Nội với má.
Hùng dạ khe khẽ. Nó rất mừng vì được đi Hà Nội, được xa cái thành phố đầy nguy hiểm đối với nó. Nhưng nó không hề lộ ra mặt.
Cô gái hôm nọ đến trông nhà cho má Thảo và hai má con lên tàu đêm, ra đi. Hà Nội, Hùng bị nhốt chặt trong phòng. Cửa không khóa, nhưng phòng bên cạnh có một gã thanh niên to như vâm, chân hơi khuỳnh, ngực nở, bắp thịt cuồn cuộn và có một đôi mắt chim cắt. Hễ Hùng mở cửa là gã cười nhăn nhở, hỏi ngay:
– Đi đâu vậy, chú em?
Hố xí, nhà tắm đều ở trên gác. Hùng không có lí do gì để xuống phố nữa.
“Má Thảo” gửi Hùng cho gã thanh niên “trông coi hộ” rồi đi biệt tích. Hùng muốn thoát ra khỏi chỗ này quá nhưng Hà Nội quá lạ lẫm đối với Hùng. Những lời hứa hẹn của ông già không làm cho Hùng yên tâm nữa. Nó cảm thấy mỗi ngày một xa cuộc sống mơ ước. Và chính trong căn phòng đó, sự nghi ngờ lớn dần lên. Lần đầu tiên Hùng tự hỏi: “Ba, má là ai?”. Sáu Xồm và Muỗi Vằn thì quá rõ. Bước lên thuyền 162, Hùng đã biết họ là ai, họ đang làm gì, họ muốn ở Hùng những gì. Nhưng ba và má – những người tử tế, có nhà cửa, có đồ đạc, có sổ hộ khẩu, không như bọn Sáu Xồm nay đây mai đó, họ ăn nói lịch sự, nhân từ, họ nuôi nấng Hùng chu đáo tử tế – họ là ai? Những câu hỏi khác nhau giày vò đầu óc Hùng, làm nó ăn không ngon, ngủ không yên. Nó cảnh giác.
Ba hôm sau, má Thảo trở về, mang theo một cái túi đựng măng khô và quả mắc coọc. Một túi khác, nhỏ hơn, đầy những quả tai chua. Má vào phòng Hùng ngay. Khác với vẻ lầm lì mọi ngày, má vồn vã:
– Con tôi chồn chân lắm hả? Thôi, chịu khó tí nữa. Tối nay má con ta sẽ lên tàu…
Má gọt quả mắc coọc cho Hùng ăn, hết quả này đến quả khác. Tối hôm đó hai má con ra tàu. Gã thanh niên đô vật đi tiễn, nhưng Hùng thấy gã đi sau má Thảo khá xa. Khi má Thảo và Hùng vào sân ga thì gã đứng ở cửa soát vé nhìn theo hai người, cho đến lúc tất cả bị bóng tối che khuất. Má Thảo lấy vé cho Hùng hẳn hoi, nhưng chỗ ngồi lại xa nhau. Hùng đầu toa, gần phòng vệ sinh, còn má Thảo ở giữa. Bên cạnh Hùng là một anh bộ đội. Còn cạnh má Thảo là một cặp vợ chồng trẻ. Họ gọt dứa cho nhau ăn. Toa tàu chưa có điện, vừa nóng vừa tối. Hùng nhớ lời má Thảo dặn: “Con phải làm như không hề quen biết gì má cả, nghe không?”. Tuy vậy, Hùng vẫn không rời mắt nhìn theo má Thảo. Má đang bình thản chải đầu dưới ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn dưới sân ga.
Tàu qua Gia Lâm. Điện trong toa bật sáng, Hùng bình tĩnh nhìn ra ngoài cửa sổ khi người soát vé, công an đường sắt mặc áo vàng qua chỗ Hùng, đến toa bên cạnh. Nhưng mắt Hùng không rời má Thảo. Má không chải đầu nữa. Má chống tay lên cằm, nhìn về phía cuối toa, vẻ tư lự. Cái túi đựng tai chua đặt gọn trong lòng. Hùng nhìn theo tia mắt má. Hùng thấy đứng ở lối đi phía cuối toa có một người thanh niên, mặc quần áo bảo hộ màu cỏ. Anh thanh niên chống một tay vào cửa thông sang toa bên, lơ đễnh nhìn những cái quạt đang quay tít trên trần toa, gần hàng xích đông để hành lí. Anh có vẻ buồn ngủ và mệt mỏi. Hùng thấy anh ta lơ đễnh nhìn, lơ đễnh gõ ngón tay vào cánh cửa. Nhưng anh bỗng rời mắt khỏi những cái quạt. Anh lia mắt dọc dãy xích đông chất đầy hành lí, vẫn lơ đễnh nhìn. Nhưng có lẽ trong con tàu chỉ có Hùng biết rằng anh ta không hề lơ đễnh. Anh như điểm từng cái túi, chiếc cặp và bao bì chất đống lộn xộn trên xích đông. Tia mắt anh dừng lại một chớp chỗ cái túi đựng tai chua trong lòng má Thảo. Rồi anh lại lơ đễnh nhìn những cái quạt. Những cái quạt quay tít trên trần toa tàu. Đến lúc này, Hùng biết có một người nữa biết rằng anh thanh niên không hề lơ đễnh. Đó là má Thảo. Má đã thôi chống tay lên cằm. Má lấy lược chải đầu, soi gương rất lâu. Má không muốn quay lại nhìn Hùng. Má đang nhìn Hùng qua cái gương soi. Hùng biết rõ, từ đây giữa má Thảo, cái túi trong lòng má và anh thanh niên có một sợi dây vô hình ràng buộc. Hùng chắc chắn anh thanh niên không hề để ý đến mình.
Tàu vẫn chạy với tốc độ cũ, không dừng ở mấy ga xép. Khách trên tàu đã ngủ gật gù. Đôi vợ chồng trẻ ngồi cạnh má dựa vào nhau mà ngủ. Má Thảo có vẻ bứt rứt. Chỉ Hùng biết điều đó. Hùng nhìn thấy lưng má giựt giựt sau làn áo mỏng.
Anh thanh niên vẫn gõ gõ ngón tay vào tấm kính cánh cửa thông toa. Hùng thấy bên ngoài có người dán mắt vào tấm kính. Bỗng cánh cửa mở toang. Một gã thanh niên vai bè bè cánh phản bước vào như một con gấu đâm sầm vào anh thanh niên.
– Đứng với ngồi ngang như cua gạch! – Gã thanh niên mới vào mắng anh thanh niên kia. Rồi gã đưa hai tay xoay người anh ta, kéo lại sát mặt mình.
– Lậu vé hả, chú mình?
Cãi nhau. – Gã thanh niên quay đầu lại phía giữa toa, đưa mắt cho má Thảo. Hùng nhận ra gã. Chính gã, gã là người “chăm sóc” Hùng trong mấy ngày vừa qua. Khách đi tàu tỉnh giấc. Mấy cô gái dồn cả về một phía để xem cãi nhau. Một nhân viên soát vé đi tới. Anh ấy dẹp mọi người ra, mời cả hai người – anh thanh niên nhỏ nhắn và gã to xác – sang toa bên gặp trưởng tàu vì cả hai cùng không có vé. Gã thanh niên to xác thì bảo rằng gã làm mất vé trong vụ cãi lộn. Còn anh kia nói rằng anh ta nhảy tàu, chưa kịp mua vé.
Khi người nhân viên đường sắt kéo được cả hai sang toa bên, sợi dây vô hình bị cắt đứt. Hùng biết là má Thảo đã được “giải vây”. Má bình tĩnh, nhưng quyết đoán và nhanh như chớp, đứng dậy bước tới nhà vệ sinh. Ngang qua chỗ Hùng, má khẽ đá vào chân nó. Má đã vào nhà vệ sinh, Hùng nhìn xuống đất, dưới chân Hùng là một cái túi nhỏ đựng quả tai chua. Hùng ngần ngừ một chút rồi lấy chân đẩy nó vào dưới ghế.
Má Thảo trở lại rất nhanh. Má ngồi vào chỗ cũ. Đôi vợ chồng trẻ cạnh má vẫn ngủ gật. Lát sau, anh thanh niên nhỏ nhắn trở lại. Anh không chống tay lên cửa mà xin ngồi ghé vào một ghế sát cửa thông toa. Anh vẫn lơ đễnh. Anh nhìn những cái quạt, những gói hành lí và dừng lại một chớp ở cái túi trong lòng má Thảo.
Một bà cụ bắt chuyện anh thanh niên nhỏ nhắn:
– Họ có phạt không?
– Dạ, có ạ – Anh trả lời.
– Cái chú lấc cấc kia đâu rồi?
– Mua vé về Hải Dương rồi ạ.
– Thật là chẳng có gì mà cũng thành chuyện cãi nhau! – Bà cụ nói tỏ ý tiếc.
– Vâng ạ – Anh thanh niên đưa đẩy – Chẳng có gì.
Trong khi anh ta nói chuyện với bà cụ, Hùng vẫn thấy anh ta lơ đãng nhìn cái quạt, đống hành lí và dừng lại một chớp mắt khoảng ghế má Thảo ngồi. Anh có vẻ thảng thốt. Anh ấy biết chiếc túi nhỏ đựng tai chua bị tráo đổi chăng? Nếu vậy thì là một cái “đuôi” có hạng đấy.
Cửa mở. Một anh công an áo vàng, một cán bộ thuế đeo băng và một chị soát vé bước vào.
– Đề nghị quý khách cho xem lại vé – Chị soát vé nói.
– Xin phép bà con cho kiểm tra hành lí – Người cán bộ thuế có đeo băng nói. Anh đưa tay chỉ một gói hành lí.
– Xin lỗi, gì đây ạ?
– Quần áo – Một cô gái trả lời.
– Xin lỗi, gì đấy ạ? – Anh chỉ vào một chiếc bao tải to tướng.
– Tôi mang về Phòng cho các cháu ít khoai – Bà cụ vừa hỏi chuyện anh thanh niên trả lời.
Anh cán bộ thuế nghiêng người bên này, bên kia. Anh không bỏ sót gói hành lí nào. Khi được trả lời anh tin ngay, không mở ra xem người có hành lí nói sai hay đúng. Ngang qua chỗ má Thảo, anh chỉ cái túi trong lòng má, lễ phép:
– Xin lỗi bà, túi gì đấy ạ?
– Vài gói măng với một ít mắc coọc về làm quà đất cảng thôi – Má Thảo trả lời.
– Bà mở cho xem.
– Vâng. Mời bác tự nhiên.
Má tự đổ các thứ vào tấm ni lông nhỏ trải xuống nền toa tàu. Ba gói măng khô và năm quả mắc coọc rơi ra với gương, lược, khăn mặt, bàn chải đánh răng. Má Thảo dốc ngược cái túi, vỗ vỗ phía đáy:
– Chỉ thế thôi ạ.
Khách đi tàu nhìn má, vẻ khâm phục về thái độ hòa nhã, tử tế và tôn trọng cán bộ của má.
– Xin cảm ơn – Anh cán bộ thuế nói, mặt anh mất vẻ điềm tĩnh.
Cả mấy người bước tới hàng ghế sau, tiếp tục hỏi nhưng rõ ràng người cán bộ chỉ hỏi chiếu lệ.
Tất nhiên trong toa tàu chỉ có Hùng biết rằng dưới chân nó có một túi đựng tai chua. Nó lấy gót chân đá cho cái túi tụt sâu vào bên trong rồi cúi đầu xuống mặt bàn con, nó giả vờ ngủ.
Hùng không ngủ. Nó đang điểm lại chuỗi sự việc từ hôm bị bác Nga đuổi rồi chạy vào trú trong căn buồng chuồng cu đến nay. Thái độ ân cần chăm sóc, giọng nói nhân từ, gói bánh, mấy bao diêm, má Thảo, gian hàng khô không cần khách mua, chuyến đi Hà Nội, sợi dây vô hình trong những cái nhìn, gã đô vật… Còn những chỗ nó không giải thích được cặn kẽ. Nhưng lần chuỗi sự việc ấy, Hùng biết được thân phận mình. Người đàn ông giàu lòng thương người kia và má Thảo đang cần Hùng. Họ nhặt Hùng ở vỉa hè lên để vứt nó vào những căn buồng, những toa tàu với những cái túi mờ ám. Không, Hùng không muốn rời vỉa hè và con thuyền 162 đen tối để chui vào thòng lọng của bọn họ. Hùng muốn điều khác. Hùng muốn được sống, được đi lại thênh thang trên đường phố như bao đứa trẻ khác. Nó nghĩ: Biết thế này thì hôm ấy cứ đi với thằng Nam vào đồn công an cảng còn tốt hơn. Thôi, bây giờ vẫn chưa muộn. Chỉ còn phân vân một điều không biết trong cái túi này chỉ có tai chua hay có thứ gì khác? Mặc, ta sẽ trả lại cho má Thảo rồi bỏ đi. Nhưng có nên trả cho bà ta không? Nếu không có ta thì cái túi đâu còn của má Thảo nữa. Ta vứt chùm chìa khóa xuống sông, đã nói hết với thằng Nam âm mưu của Sáu Xồm, vậy thì ta sẽ lột mặt nạ cái bọn người mờ ám này. Nếu họ tử tế thì họ không phải lén lút như vậy. Điều này thì Hùng biết rõ lắm.
Tàu về ga. Má Thảo xách túi măng khô ra trước, vượt qua cả đôi vợ chồng trẻ. Ngang qua chỗ Hùng, bà dúi vào tay nó một mẩu giấy. Đặt mẩu giấy vào trong lòng bàn tay, Hùng đọc nhanh: “Về sau má, nhớ cái túi”. Nó chờ mọi người xuống hết rồi mới nhảy một cái như con sóc xuống sân ga.
Đồng hồ chỉ hai giờ sáng.