
Cuối cùng Cụ Trứ cũng được về trí sĩ! Trước khi từ giã kinh thành Huế để về với quê Hồng Lam non xanh nước biếc, Cụ ngất ngưởng ngồi trên cỗ xe bò cái kéo, cổ bò lại đeo nhạc ngựa, long nhong đến từng nhà từ giã những người quen…(Tiếp kì trước)

Cuối cùng Cụ Trứ cũng được về trí sĩ! Trước khi từ giã kinh thành Huế để về với quê Hồng Lam non xanh nước biếc, Cụ ngất ngưởng ngồi trên cỗ xe bò cái kéo, cổ bò lại đeo nhạc ngựa, long nhong đến từng nhà từ giã những người quen. (Tiếp kì trước)
27. TRÊN DƯỚI, TRONG NGOÀI, LỚN BÉ ĐỀU CHÓ CẢ!
Gàn ba chục năm tận tâm lăn lộn chốn quan trường, càng về già càng thấy nhiều, nghe nhiều, người mang chí nam nhi tang bồng năm nào đã mỏi mệt lắm rồi, mấy lần dâng sớ xin nghỉ hưu nhưng vua vẫn không cho. Rồi khi đã qua tuổi thất thập, Cụ lại lần nữa dâng sớ lên vua mới Tự Đức vừa lên ngôi, và lần này thì được Ngài phê duyệt, được về với chức quan Phủ doãn Thừa Thiên. Ngày “nhận sổ hưu”, với 170 quan tiền được lĩnh, Nguyễn Công Trứ liền rầm rộ tổ chức một bữa tiệc chia tay bạn bè, đồng liêu trên dưới. Gia nhân tấp nập mượn nhà, mua sắm lễ vật, cơm rượu đề huề. Và thật nhiều chó, những 40 con chó đủ loại sắc thể! Các quan khách kéo đến rất đông (nghe nói nhà vua cũng vi hành đi bộ đến dự), ngửi mùi cầy do bàn tay những đầu bếp xứ Nghệ chế biến thơm lừng, chỗ này chỗ kia dậy tiếng trầm trồ to nhỏ: “Ôi, thịt chó, chó, nhiều quá!” Và hình như chỉ chợ có vậy, cụ Thượng hưu đứng dậy vuốt râu dõng dạc và khoan thai nói: “Dạ thưa, đúng như vậy đấy ạ, – Cụ đưa tay chỉ quanh khắp lượt, tiếp: đúng là trên dưới, trong ngoài, lớn bé, tất cả đều là chó hết cả ạ!”
28. CHE MIỆNG THẾ GIAN
Cuối cùng Cụ Trứ cũng được về trí sĩ! Trước khi từ giã kinh thành Huế để về với quê Hồng Lam non xanh nước biếc, Cụ ngất ngưởng ngồi trên cỗ xe bò cái kéo, cổ bò lại đeo nhạc ngựa, long nhong đến từng nhà từ giã những người quen.
Khi đến nhà Hà Tôn Quyền – vị đại thần trước kia đã từng dèm pha gây cho ông nhiều bước thăng trầm lận đận, Nguyễn Công Trứ lấy một cái mo cau, chép một bài thơ buộc vào phía sau đuôi bò, che… lại. Thiên hạ xúm lại xem, rúc rích cười khiến họ Hà thêm tò mò. Nguyễn Công Trứ gạt mọi người và úp sấp mo cau lại. Hà Tôn Quyền đòi coi cho kì được, sấn lại, lật ngửa tấm mo cau lên. Hoá ra trên mo cau có bài thơ:
Xuống ngựa lên xe lọ tưởng nhàn
Lợm mùi giáng chức với thăng quan
Điền viên dạo chiếc xe bò… cái
Sẵn tấm mo che miệng thế gian.
Hà Tôn Quyền đỏ ngay mặt, hiểu ra là Nguyễn Công Trứ xỏ mình, “miệng thế gian” hay dèm pha có khác chi miệng họ Hà.
Về hưu nhưng cụ Thượng Trứ không ở lại làng Uy Viễn, mà vào ở một cạnh ngôi chùa trên núi Cảm Sơn, thuộc xã Đại Nại gần tỉnh lị Hà Tĩnh bây giờ, và thường cưỡi bò vàng đạc ngựa đi chơi đây đó. Người đời truyền tụng, để diễu và răn dạy những kẻ hay đàm tiếu những chuyện thị phi ganh ghét, cụ viết thơ lên chiếc mo cau rồi buộc sau đít bò. Có người còn nhớ hai câu sau:
Miệng thế khó đem bưng nó lại.
Lòng mình chưa dễ bóc ai coi.
Thiên hạ thấy vậy lại đua nhau bàn tán, kẻ bảo Cụ chán đời, người bảo Cụ ngạo thế; Cụ chỉ ngất ngưởng cười, nghêu ngao thơ, bất tận chơi mà chẳng bận lòng.
29. GIỄU LỐI VĂN SÁO RỖNG
Một lần Cụ đang cưỡi bò rong ruổi chơi theo con đường thiên lí thì gặp một toán các thầy cử tân khoa đang trên đường trẩy kinh thi hội, cười nói rôm rả, ai cũng đua nhau khoe tài học tầm chương trích cú của mình. Cụ cưỡi bò đi cùng các thầy một quãng dài, nghe các thầy nói chán rồi liền cất tiếng bắt chuyện làm quen, nói:
– Lão nghe các thầy từ nãy đến giờ trổ tài văn thơ thật sướng lỗ tai. Tình cờ hôm nọ lão có nghe lỏm được một đoạn văn có lẽ là của một danh sĩ, bây giờ xin đọc các thầy nghe rồi nhờ các thầy luận giải giùm cho lão với nhé.
Các thầy cử đang muốn trổ tài ta đây, thấy có dịp liền tranh nhau nói:
– Được thôi, cụ cứ đọc đi, có gì chúng tôi sẽ nói cho cụ biết.
Nguyễn Công Trứ ngồi trên lưng bò tủm mỉm cười rồi đọc một mạch:
“Sông Nhĩ Hà sâu ba mươi sáu thước, chim ăn chim béo, cá không ăn, cá bay về núi Hồng Sơn. Nhớ thuở xa vua Thần Nông giá sắt, vua Đế Thuấn canh vân. Cùng quăng, cùng quẳng, cùng quằng, tổng bất ngoại bò vàng chi liếm lá!…”
Các thầy cử nghe xong, không ai bảo ai đều khen là văn kêu ý lạ; nhưng bình giải cho rõ ràng cụ thể thì các thầy đều tịt mít. Đọc xong, Cụ Trứ xin phép dừng lại cho bò ăn cỏ và ôm bụng cười, để các thầy suốt quãng đường cứ bàn luận mãi mà vẫn không ai hiểu nghĩa ý đoạn văn là ra sao, xuất xứ từ đâu ra mà chưa ai từng được nghe tới…
30. PHONG LƯU ĐÁO LÃO THẾ GIAN VÔ
Nghỉ hưu rồi, về quê, Cụ Trứ nhờ nhân dân giúp đỡ, dựng một ngôi nhà lá rất nhỏ cạnh chùa Cảm Sơn dưới chân núi Đại Nài, cách lị sở tỉnh Hà Tĩnh chừng vài dặm. Thường cưỡi bò vàng đạc ngựa cùng cô vợ trẻ (hầu non) vừa mới cưới, cô này cũng là ca kĩ, đi ngao du và ca hát. Có lần ông gọi cả gánh ca trù đến hát ngay giữa sân chùa. Vị sư trụ trì tại đây sợ quá, bèn tìm đến nhờ quan Bố chính Hà Tĩnh lúc đó là Hoàng Nho Nhã can thiệp giúp. Hoàng bèn đích thân đến xem, từ xa nghe lời ca trong tiếng đàn réo rắt:
…Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng,
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi,
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi gì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng!
Quan Bố chánh cũng say sưa với thơ hay, đào đẹp, giọng ngọt, đàn êm, quay lại bảo với nhà sư trụ trì:
– Thôi đừng can thiệp vào thú vui của Cụ, mà có muốn ta cũng không can thiệp được đâu!
Nghe kể, cuối buổi, Hoàng Nho Nhã làm tặng cụ Trứ đôi câu đối rất hay:
Sự nghiệp kinh nhân thiên hạ hữu,
Phong lưu đáo lão thế gian vô!
Nghĩa là kẻ làm nên sự ngiệp khiến người đời khiếp sợ trong thiên hạ vẫn còn, chứ người đến già vẫn phong lưu (như cụ) thì thế gian không có!
31. CÀNG GIÀ CÀNG DẺO CÀNG DAI!
Trong thời gian trú tại Núi Nài, hát xướng, ngao du cùng bạn bè, khi tuổi đã ngoại thất tuần, Nguyễn Công Trứ gặp một cô gái mười bảy tuổi. Như có duyên trời định, hai người – một lão già tóc bạc và một thiếu nữ má hồng – đã đem lòng yêu nhau và gắn bó. Cụ Thượng Trứ hỏi nàng làm thiếp, và nàng đã đồng ý làm lễ cưới. Trong đêm hợp hôn, Cụ cùng nàng bày rượu, đập trống hát ca trù và sáng tác một bài hát nói ngay lập tức được truyền tụng khắp vùng: và cho đến tận ngày nay không “tay chơi già” nào là không biết, thuộc một đôi câu.
Trẻ tạo hoá ngẩn ngơ lắm việc,
Già nguyệt ông cắc cớ trêu nhau.
Kìa kia người mái tuyết đã phau phau,
Run rẩy kẻ đào tơ còn mảnh khảnh.
Trong trướng gấm ngọn đèn hoa nhấp nhánh,
Nhất toạ lê hoa áp hải đường…
Và có lẽ cho đến tận ngày nay không “tay chơi già” nào là không biết, không thuộc hai câu sau đây:
Tân nhân nhược vấn lang niên kỉ,
Ngũ thập niên tiền nhị thập tam!
(Nếu thiếp mới hỏi chàng bao tuổi,
Năm mươi năm trước hai mươi ba!)
Và Cụ kết thúc khúc hát bằng một tuyên bố… xanh rờn:
Xưa nay mấy kẻ đa tình,
Lão Trần là một với mình là hai.
Càng già càng dẻo càng dai!
32. NHỮNG ĐÒN TRỪNG PHẠT BẰNG CHỮ NGHĨA
Làm quan, Nguyễn Công Trứ được dân chúng cảm phục, quý mến nhưng cũng bị không ít kẻ ghen ghét, hãm hại, khiến cụ đã bao phen lên voi xuống chó. Nhưng là một văn nhân nhân văn, những ân oán đó cụ không trả bằng những mưu mô thảm độc, máu chảy đầu rơi, mà chỉ bằng trí tuệ sắc sảo, bằng lời nói thâm thuý đôi khi cay độc – những đòn trừng phạt bằng chữ nghĩa nhiều khi còn đau hơn hoạn, có khi còn hơn cả án tử hình!
Sau đây là một vài câu chuyện:
Với quan tỉnh Bắc Ninh
Tương truyền, một trong những người đã từng vu khống Nguyễn Công Trứ là quan Tổng đốc Bắc Ninh họ Phạm, và Nguyễn Công Trứ đã trừng phạt như sau:
Trong một bữa tiệc có quan Tổng đốc Bắc Ninh cùng dự, khi chén rượu đã ngà ngà, đáp lời mọi người mời mọc, thúc dục kể chuyện vui, cụ Trứ nói:
– Thưa các quan, cách đây mấy năm, khi đương làm quan ở đất Bắc, nhân đi hành hạt tại huyện lị Nam Sách gặp một đứa bé con mới lên bảy tám tuổi mà thông minh linh lợi khác thường, tôi liền ra cho nó một vế đối Nôm: Lời vàng quan tỉnh Bắc Ninh. Không ngờ, chẳngcần phải nghĩ ngợi lâu, nó ứng khẩu đối luôn: Cửa ngọc bà huyện Nam Sách. Chà,“Lời vàng” đối với “cửa ngọc”, “quan tỉnh” đối với “bà huyện”, “Bắc Ninh” đối với “Nam Sách” thì còn chê làm sao được! Tôi liền thưởng cho nó một quan tiền.
Nghe chuyện, các quan đều pha ra cười, chỉ có quan Tổng đốc Bắc Ninh họ Phạm thì đỏ mặt tía tai, cố ngồi nín thinh cho qua bữa tiệc.
Với Quan phủ Thạch Hà
Quan phủ Thạch Hà, Hà Tĩnh, cũng có mối ân oán chi đó với cụ Trứ nên có lần chịu đòn đau của cụ. Trong một bữa tiệc, khi các các quan đã ăn uống say sưa rồi, cụ Trứ kể chuyện:
– Ở phủ Thạch Hà đất Hà Tĩnh quê tôi có một đứa bé thần đồng. Nó ứng đối tài tình không thể tưởng. Một lần tình cờ gặp nó, tôi đọc mau một câu thật dài để thách nó đối, thế mà nó đối hay và nhanh hơn cả người lớn mới tài chứ. Câu tôi đọc là thế này:
– Chống chõi như quan phủ Thạch Hà. Thạch là đá, hà là sông, giữa dòng sông ngăn đá.
Nó tiếp lời tôi mà đối ngay như sau :
– Giàu có như bà huyện Kim Động. Kim là vàng, động là hang, trong cửa hang có vàng
Các quan khách trong tiệc ôm bụng cười nghiêng ngửa vô tư, chỉ riêng quan Tri phủ Thạch Hà thì nửa cười nửa mếu lấm lét nhìn quanh.
Với Lang trung bộ Lễ
Trong một bữa tiệc khác, mũi dùi châm biếm của cụ chĩa vào một viên Lang trung cũng có mặt trong tiệc. Thoạt đầu, Cụ hỏi:
– Thưa các quan bác, các quan bác có biết “Lang trung” là gi không?
Đánh hơi thấy sắp được nghe một câu chuyện gì đó thú vị, cả bàn gần như đồng thanh hô:
– Thưa không ạ, Cụ kể đi ạ!
– Vâng, vậy thì tôi xin kể chuyện “Ai ta hề Lang trung” để các quan bác biết nhé. Ấy là vào cái thời làm quan ở Bắc kì, tôi có biết một ông người Hoa khá giàu và có ba vợ, họ ở chung với nhau và thương yêu, chiều chuộng nhau như bát nước đầy. Chẳng may, ông chồng mang bệnh nặng không cứu chữa được. Khi đức lang quân vừa tắt thở, người vợ lớn liền nhào tới ôm lấy đầu chồng than khóc nức nở, lặp đi lặp lại “Ai ta hề lang thủ”, nghĩa là:“Ôi thương cái đầu của chàng!”
Người vợ thứ hai chạy lại ôm chặt lấy hai chân của chồng mà khóc thảm thiết: “Ai ta hề lang túc”, nghĩa là: “Ôi thương cặp chân của chàng!”
Còn người vợ thứ ba thấy thế vội chen vào giữa hai chị, cầm lấy “cái ấy” của cố phu quân mà khóc than kể lể: “Ai ta hề lang trung! Ai ta hề lang trung!”, nghĩa là: “Ôi thương cái… của chàng!”. Đấy, “Lang trung” là thế…
Lời kể chưa dứt, đám tiệc đã trở nên nhốn nháo với những tiếng cười hô hố, ha há, hi hí… Duy chỉ có một người không cười nổi, mà cũng không biết làm sau giấu đi bộ mặt của mình: đó là viên Lang trung bộ Lễ trước kia đã có hành động bất nhã với cụ Trứ.
33. “ÂN OÁN GIANG HỒ” VỚI TỈNH THẦN HÀ TĨNH
Tương truyền, có lần các quan tỉnh thần Hà Tĩnh mật tấu vu cáo Nguyễn Công Trứ lên vua Tự Đức, vì thế cụ rất hận, thường tìm cách thừa dịp dạy cho các quan tỉnh Hà Tĩnh những bài học đích đáng. Sau đây là hai trong số nhiều câu chuyện được truyền tụng trong dân gian.
1. Mùa xuân năm Canh Tuất (1850), lúc đó Nguyễn Công Trứ về hưu dưỡng đã được gần nột năm, các quan tỉnh Hà Tĩnh tổ chức lễ cúng “Xuân thủ”, là lễ cúng đầu mùa xuân hàng năm. Tham dự lễ cúng, ngoài các quan viên tại chức, các hưu quan trong tỉnh cũng được mời, tất nhiên trong đó có cụ Thượng Trứ. Sau khi hành lễ là một bữa tiệc rượu khoản đãi các quan viên văn võ tân cựu trong tỉnh.
Vào bàn tiệc, vì có mặt cụ Trứ nên ai nấy có vẻ e dè, không dám phách lối khoe khoang như mọi khi, lỡ cụ châm chọc cho giữa công chúng thì mất mặt. Thấy không khí trên tiệc buồn tẻ, Cụ Trứ mới lấy tư cách người cao niên mời quan khách nói chuyện tự nhiên. Nhưng các quan vẫn chẳng có ai dám nói trước. Quan Bố chánh chủ tiệc đành phải đứng lên thưa:
– Xin mời Cụ lớn Thượng thư nói trước, chúng tôi hậu sinh, không dám thất lễ.
Cụ Trứ mỉm cười, và bắt đầu nói:
– Đa tạ các quan có nhã ý cho lão nói trước, lão xin kể hầu mọi người vài câu chuyện vui vậy. Mà chuyện cũng xảy ra cách đây hơn mười năm rồi…
Các quan hoan hỉ:
– Xin mời cụ, xin cụ cho nghe ạ.
Cụ Thương Trứ vuốt râu, mỉn cười, thong thả kể:
– Chả là hồi đó lão còn làm Tổng đốc Hải Yên, một hôm đi đường gặp một đứa bé chừng mười tuổi mà trông lanh lợi vô cùng. Đoán nó là một học trò thông minh, lão liền ra cho nó một câu đối: Ở Hà Tĩnh sông lặng nhờ gió lặng. Nó ứng khẩu đối ngay: Tại Hải Yên bể yên bởi sóng yên
Lão tiếp tục đọc: Quan tỉnh Hà Tĩnh mở miệng hay: lời lời châu ngọc. Nó đối liền: Bà tổng Hải Yên giấu của kín: hàng hàng gấm thêu
Lão lại ra một câu đối bằng tục ngữ: Ăn một đọi, nói một lời, đừng học thói tam tiên tam tổ. Nó cũng đối ngay bằng tục ngữ: Của ba loài, người ba đấng, kể chi phường bát đảo bát điên
Lão phục nó lắm, đọc một câu ngạn ngữ khác: Ném đất giấu tay, ghê những kẻ mặt người dạ thú. Nó đối liền bằng một câu ngạn ngữ: Phun người ngậm máu, sá chi phường miệng Phật lòng xà
Các quan trong tiệc ngồi nghe, có người xuýt xoa khen thằng bé giỏi, nhưng cũng có người tái mặt, cúi đầu.
2. Vào dịp tiết Trung Nguyên (rằm tháng bảy), quan Bố chính Hà Tĩnh truyền cho quan huyện Nghi xuân tìm thuê một chiếc thuyền rộng rãi để đêm rằm các quan xuống Bến Thủy hóng mát, chơi tổ tôm và hát cô đầu. Chẳng may cụ Nguyễn Công Trứ biết được tin ấy, bèn đi tìm người lái thuyền đã nhận lời cho các quan thuê thuyền. Anh lái trả lời:
– Thưa cụ, con đã lỡ nhận lời ông lí trưởng mất rồi ạ.
– Không sao, lão không cần thuê cả thuyền đâu. Lão chỉ cần thuê cái mui thuyền đủ để ngồi hóng mát là được. Tôi sẽ trả cho anh một quan tiền.
Anh lái thuyền bằng lòng. Trước khi đêm xuống, cụ Trứ mặc bộ áo quần vải thô nhuộm nâu như một ông lão nhà quê bước xuống thuyền, trao cho anh lái một quan tiền rồi ra ngồi trước mui thuyền hóng mát. Lát sau, xe ngựa của các quan tỉnh, quan huyện lục tục kéo đến cùng đoàn đào kép hát cô đầu. Mọi người lần lượt xuống thuyền, chèo chính giữa dòng sông Lam thơ mộng thả neo và bắt đầu cuộc vui chơi, đánh bài, đần hát. Không ai để ý đến ông lão nhà quê ngồi một mình đầu mui thuyền. Được một lúc, cụ lân la bắt chuyện với anh chèo mui:
– Anh được mấy con rồi? Đã có cháu nào lớn chưa?
– Thưa cụ, con được ba cháu rồi ạ. Chúng nó đều còn nhỏ dại cả. Vợ cháu lại gần ngày sinh nữa.
– Vợ gần ngày sinh, thì phải xa vợ nhá.
– Dạ. Nhưng đôi lúc vì thương vợ, nên cũng phải gần ạ.
Ông lão bất chợt cao giọng quát:
– Bậy! Vợ gần ngày sinh mà lại gần vợ thì chẳng là thằng trong bú… thằng ngoài à!
Các quan trong thuyền đang say sưa chơi tổ tôm chợt nghe từ bên ngoài mui thuyền vẳng tới “thằng trong bú… thằng ngoài”, thì đều dỏng tai nghe ngóng. Sinh nghi bởi câu nói khiếm nhã như vậy, quan đầu tỉnh ra hiệu cho quan huyện ra ngoài xem xét tình hình ra sao? Quan huyện bước ra, nhìn kĩ ông già đang ngồi quay lưng hóng mát trên mui, liền nín thinh trở vào trình quan Bố chính: “Chính Cụ Thượng Trứ đã nói câu ấy, Cụ đang ngồi ở ngoài mui thuyền một mình”.
Quan Bố chính nói nhỏ:
– Mặc Cụ, chúng mình cứ tiếp tục chơi, làm như không nghe gì, không biết Cụ ấy đang ngồi ngoài ấy.
Lát sau, ngoài mui Cụ Trứ lại cất giọng hỏi anh chèo:
– Sao anh không hát đi cho vui?
– Dạ, con không biết truyện hay nên không hát ạ.
– Anh có muốn nghe tôi đọc Kiều không?
– Dạ, thưa có.
Cu Trứ cất giọng ngâm nga văng vẳng: “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Nghe giọng ngâm Kiều vọng vào, quan Bố chính thật sự chột dạ, liền ra lệnh cho thuyền cập bến, “để các quan về, kẻo đêm đã khuya, ngọn gió biển đã thổi mạnh”.
(còn một kì nữa)
(nguồn: Trường PTTH Nguyễn Công Trứ – Nguyễn Văn Tú sưu tầm)