“Sông Đáy” in trong tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” (NXB Hội nhà Văn- 1992), một tập thơ đánh dấu bước chuyển mình mạnh mẽ của Nguyễn Quang Thiều trong quá trình đi tìm “khuôn mặt” thực sự của thơ ông. Trong lời mở sách tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” được tái bản lần thứ nhất năm 2015, nhà thơ đã có những chia sẻ về sự vượt thoát quyết liệt để phủ nhận chính quan niệm thơ ca của mình trước đó: “Ngay trong tập “Ngôi nhà tuổi 17”, tôi đã nhận ra trên gương mặt của tôi lúc đó thoáng hiện lên một gương mặt khác, trong giọng nói tôi đôi lúc lại pha một giọng nói khác”(NQT). Ngay cả khi “Ngôi nhà tuổi 17” được lọt vào chung khảo Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991 và có nhiều cơ hội đoạt giải, thì tại thời điểm này Nguyễn Quang Thiều lại nhận thấy những khác lạ trong mình, những nghi hoặc với chính tiếng thơ hiện tại của mình, ông lờ mờ nhận ra rằng có một tiếng nói khác từ sâu thẳm đang dần vang lên mạnh mẽ. Chính vì thế, trong thâm tâm, ông hoàn toàn không muốn tập thơ “Ngôi nhà tuổi 17” được giải. Và khi thi phẩm này không được trao giải, tác giả của nó lại cho rằng đó là một may mắn. Ở phần cuối tập thơ này, Nguyễn Quang Thiều viết “Lạc nhịp”, đó cũng là tuyên ngôn cho con đường sáng tạo mới của ông, với ý chí, quyết tâm thoát khỏi “một bản đồng ca thánh thót” do chính mình dựng lên:
Thế mà tôi lạc nhịp đi ra
Cánh chim mỏng ngược về nơi chớp giật
Và ngọn gió đón tôi vào đội ngũ
Một nửa tôi hóa bão cuối chân trời
Thế mà tôi lạc nhịp đi ra
Như ngựa hoang cắt mình qua cỏ cháy
Cỏ xòa lá đón tôi vào với cỏ
Một nửa tôi thành gai trên lá cỏ mềm
Để rồi “Sự mất ngủ của lửa” ra đời trong một năm sau đó và ngay lập tức được trao Giải thưởng Hội Nhà văn 1993. Và từ đó, chúng ta thấy một Nguyễn Quang Thiều “để lại sau mình những xa lộ thênh thang, thẳng băng cho đến hiện tại mà ít có những ngã rẽ đột ngột”. “Sự mất ngủ của lửa” mở đầu cho một cuộc lên đường dù đầy rẫy những gian khó, nhưng tập thơ đã thành công trong lần cất cánh đầu tiên với những đổi mới quyết liệt trong thi pháp. Đó là sự phá bỏ những kết cấu truyền thống, kiến tạo một không gian đa chiều với những suy tư trùng phức, không gian thơ chuyển động mạnh mẽ, biến hóa bất ngờ. Hệ thống hình ảnh trong tập thơ có những mối liên kết phi tuyến tính, mang đậm màu sắc tượng trưng, siêu thực, (dù các yếu tố đó được vận dụng linh hoạt và mang đậm yếu tố tư biện của nhà thơ) với những liên tưởng lạ lẫm, phóng khoáng, đôi khi đầy phiêu lưu. Những liên tưởng của Nguyễn Quang Thiều đã đem lại cho người đọc một món ăn mới lạ, mới đầu có thể khó ăn, nhưng càng “nhấm nháp” càng thấm được những mùi vị hấp dẫn. Một điểm đặc trưng nữa trong “Sự mất ngủ của lửa” là việc sử dụng những câu thơ kéo dài không giới hạn, phá bỏ hoàn toàn những giai điệu quen thuộc, những chuẩn mực của câu thơ truyền thống, từng dòng thơ mang đậm chất tự sự. Đó là lí do vì sao khi đọc bài thơ “Sông Đáy” nói riêng và tập thơ này nói chung, tôi có cảm giác Nguyễn Quang Thiều đang không viết thơ, ông chỉ ghi lại dòng cảm xúc mãnh liệt, tự do của mình. Hình thức câu thơ của “Sông Đáy” có những điểm rất đặc biệt, thú vị mà tôi sẽ phân tích ở phần dưới.
Nhưng dù đổi mới đến bao nhiêu chăng nữa, thơ Nguyễn Quang Thiều vẫn luôn có những “nét mặt” thân thuộc mà mỗi người đọc Việt đều thấy sự gần gũi, thấy một phần của mình trong đó. Thơ văn của nhà thơ làng Chùa luôn day dứt những suy tư về quê hương, về những người thân yêu như ông bà, cha mẹ. Cảm tưởng như Nguyễn Quang Thiều như một cậu bé chưa bao giờ lớn, và cũng không muốn lớn. Ông luôn khao khát được đắm mình vào không gian ấm áp, thân thuộc của làng quê, của ngôi nhà đơn sơ, trong vòng tay của bà, của mẹ. Thế nên, đọc những gì Nguyễn Quang Thiều viết về chủ đề này, cảm tưởng như thi sỹ luôn tràn ngập xúc cảm mãnh liệt, ngay cả khi đã là một người đàn ông lịch lãm, từng trải. Cũng không phải ngẫu nhiên, vị trí đầu tiên trong tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” là bài thơ “Sông Đáy” và kết thúc tập thơ là “Bài hát về cố hương”. Tập thơ này có 25 bài thì có đến 10 bài về chủ đề quê hương hoặc tái hiện những hình ảnh quê nhà một cách rõ nét. Có thể nói cảm thức về quê hương xuyên suốt hành trình thơ của Nguyễn Quang Thiều, và càng thời gian gần đây nó lại càng đậm đặc.
“Sông Đáy” là một bài thơ đặc biệt, đặc biệt không chỉ ở chỗ nó là một bài thơ hay, giàu cảm xúc. Có ai đặt câu hỏi là tại sao bài thơ này lại đặt ở vị trí đầu tiên trong tập “Sự mất ngủ của lửa” mà không phải ở một vị trí khác. Theo tôi, bài thơ này giống như một “cánh cửa” mang những nét thân quen dù đã được thay những sắc màu mới lạ. Để khi mở nó ra, người ta thấy ngay một “Ban mai”( tên bài thơ đặt ngay sau “Sông Đáy”) của ngày mới, một trang mới với tất cả những gì đổi thay, mới mẻ, lạ lẫm. Nói cách khác, “Sông Đáy” là một bài thơ đứng trên vạch xuất phát báo hiệu một gia đoạn rực rỡ đang đến trong thơ Nguyễn Quang Thiều. Nó là một gạch nối giữa “ Ngôi nhà tuổi 17” và “Sự mất ngủ của lửa”. Vì thế, việc đưa bài thơ này vào trong chương trình phổ thông là một ý tưởng hay, không chỉ ở việc giới thiệu một trong những đại biểu xuất sắc nhất của thơ Việt đương đại mà giáo viên còn có cơ hội hướng dẫn học sinh thấy được sự pha trộn giữa hai tư duy thơ truyền thống và hiện đại của bài thơ. Trên hết, thi phẩm góp phần bồi đắp cho trẻ tình yêu gia đình, quê hương, ý thức được sự thiêng liêng của nơi chôn nhau, cắt rốn. Sự biết ơn đối với công sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ.
NHỮNG CÁCH TÂN VỀ HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT
Bài thơ thể hiện tư duy kiến tạo không gian mới mẻ của Nguyễn Quang Thiều, một không gian được xây dựng bằng hệ thống hình ảnh đa chiều, song hành, chồng lấn, đan cài giữa thế giới tâm tưởng và thế giới hiện thực, giữa kí ức và những biến cố trong thực tại, nó vận động mạnh mẽ vừa thống nhất vừa tách biệt thành những vùng nhỏ hơn. Dù vậy, người đọc vẫn thấy kết cấu bài thơ được chia thành hai phần rõ rệt, cân đối. 11 câu thơ đầu khắc họa không gian trong tâm tưởng nhà thơ khi xa quê, 11 câu cuối là cảm xúc ngày trở về. Đây vẫn vẫn là kết cấu tường minh, rõ ràng trong thơ truyền thống. Hơn nữa dù hình ảnh thơ trong tác phẩm có nhiều nét mới lạ nhưng kết nối giữa chúng khá dễ xác định, tất cả được sắp đặt theo một trình tự của mạch cảm xúc chứ không lộn xộn, nhòe mờ, đòi hỏi người đọc phải dụng công đi tìm mối liên hệ giữa chúng. Sắc thái hình ảnh khá quen thuộc, mang đậm màu sắc dân tộc, thân thuộc, gần gũi của quê hương Việt Nam truyền thống mà linh hồn là dòng sông Đáy.
Về những điểm cách tân trong bài thơ, theo tôi rõ nét nhất là sự thay đổi trong phạm vi từng câu thơ. Từ hình thức, kết cấu, đến cách thức liên tưởng, các yếu tố này có sự khác biệt rõ nét. Bỏ qua yêu cầu về nhịp điệu, câu thơ trong “Sông Đáy” có xu hướng kéo dài không giới hạn, hình thức này có thế mạnh là có thể ghi trọn được dòng cảm xúc một cách tự nhiên, phóng khoáng nhất, không bị câu nệ quá nhiều về những quy tắc của một câu thơ theo quan niệm thông thường. Hơn nữa câu thơ dài có tác dụng tăng cường tính tự sự, bộc bạch cảm xúc trực tiếp, dù hình ảnh vẫn thấm đẫm chất thơ. Đây là một trong những sở trường của Nguyễn Quang Thiều. Khi phân tích kĩ kết cấu của từng câu thơ, chúng ta còn thấy được nhiều điều thú vị, sau đây là vài câu tiêu biêu:
– Tôi dụi mặt vào lưng áo người đẫm mồ hôi/ mát một mảnh
sông đêm
– Cơn mơ vang tiếng cá tuột câu/ như một tiếng nấc
– Những cánh buồm cổ tích đã bay xa/ về một niềm tức tưởi
– Em đã mang đôi môi màu dâu chin sang đò/ một ngày sông
vắng nước
Những câu thơ thực sự đánh dấu sự phá cách trong tư duy của nhà thơ làng Chùa. Nếu chúng ta để ý, tất cả những vế đầu được ngăn cách bởi dấu gạch chéo trong từng dòng thơ có thể tồn tại với cách là một câu thơ độc lập rất hay, có thể là điểm nhấn nếu đặt vào trong một bài thơ truyền thống. Tuy nhiên tác giả đã cố tình phá vỡ nó bằng cách thêm một cấu trúc khác để thay đổi trường liên tưởng của câu thơ. Nếu cấu trúc trước dấu gạch chéo là cách liên tưởng đơn tuyến, thì cả dòng thơ sẽ là liên tưởng đa tuyến, nó tạo những hiệu ứng thẩm mĩ bất ngờ, mới lạ, khiến người đọc phải “động não”. Những dòng thơ này một phần nào đó mang màu sắc tượng trưng rõ nét, từ việc phá vỡ cấu trúc thông thường của dòng thơ đến những liên tưởng phóng khoáng, phá cách, thậm chí phi logic. Một điểm nữa là, Nguyễn Quang Thiều đã khá “liều lĩnh” trong việc đưa những đơn vị ngôn ngữ nặng tính khẩu ngữ vào thơ như “như một tiếng nấc”, “về một niềm tức tưởi”, “vốc cát ấp vào mặt”…đây là một điều cấm kị trong thơ truyền thống. Đáng nói, bài thơ này được viết từ năm 1991. Đây là những điểm cơ bản, nổi bật trong sự đổi mới thi pháp trong “Sông Đáy”.
SÔNG ĐÁY VÀ MẸ
Về mặt nội dung, như đã nói, đây là một bài thơ hay về chủ đề quê hương xứ sở với cảm xúc vừa mãnh liệt vừa sâu lắng, tạo được sự đồng điệu với độc giả. Bởi những sắc thái tình cảm trong bài thơ mang tính nhân bản sâu sắc, nó hướng đến nơi chôn nhau cắt rốn, những người thân nơi quê nhà đặc biệt là người mẹ yêu thương. Nhà thơ đã tạo ra được một cặp hình tượng song hành: Sông Đáy- Mẹ. Cặp hình tượng này gắn kết với nhau trong suốt bài thơ, đôi lúc sông Đáy và Mẹ hòa lẫn, giao thoa vào nhau đến mức không thể rạch ròi, Sông Đáy là Mẹ và Mẹ cũng là dòng sông. Mở đầu và kết thúc bài thơ đều là hình ảnh Sông Đáy và Mẹ. Đây là hai biểu tượng thân thương, thiêng liêng nhất của quê hương. Mẹ và dòng sông còn gợi đến sự vĩ đại của sự sinh thành, nuôi dưỡng thể xác và tâm hồn mỗi con người, là chỗ dựa tinh thần cho những đứa con xa xứ, là “chiếc phao” cuối cùng của con người trong cuộc đời ô trọc, đầy rẫy những cạm bẫy, bất trắc, đổ vỡ… Ngay trong khổ thơ đầu tiên, trong dòng kí ức của tác giả, sông Đáy hiện lên thật thân thuộc, ấm áp:
Sông Đáy chảy vào đời tôi
Như mẹ tôi gánh nặng rẽ vào ngõ sau mỗi chiều đi làm về vất vả
Tôi dụi mặt vào lưng áo người đẫm mồ hôi mát một mảnh sông đêm
Sông Đáy là một dòng sông thơ mộng, hiền hòa, lãng mạn và đã đi vào thơ ca như một biểu tượng của xứ Đoài nổi tiếng:
Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo diều vi vút thổi đêm trăng
( Quang Dũng)
Sông Đáy đã bồi đắp cho tâm hồn thi sỹ từ thuở ấu thơ, gắn liền với những kí ức tươi đẹp thời chăn trâu, cắt cỏ. Vì thế khi trưởng thành, dù có đi đâu, con sông Đáy vẫn là nguồn cội, bởi đó là nhà, là nơi có cha mẹ, những người thân với cả bầu trời kỉ niệm. Hình ảnh người mẹ được so sánh ngay đầu bài thơ cho thấy được sự gắn kết đặc biệt giữa hai hình tượng. Dòng sông như mẹ, nuôi dưỡng con người bằng sự thầm lặng, lam lũ, bình dị mà vĩ đại. Dòng sông cứ âm thầm chảy, âm thầm bồi đắp phù sa, tưới mát cho ruộng đồng cũng như mẹ “gánh nặng rẽ vào ngõ sau”, không cần ai biết, không cần tôn vinh. Những lúc yếu đuối nhất, dù là những người đàn ông bản lĩnh, họ vẫn muốn được bàn tay chở che của mẹ. Dù chỉ là trong tâm tưởng, nhà thơ dường như vẫn cảm nhận được sự ấm áp, cái mùi nồng khét của mồ hôi lao động trên lưng áo mẹ, nhưng nó lại là mùi hương tuyệt vời nhất, dễ chịu nhất, mát lành nhất, như nước sông đêm rười rượi. Sự lấm láp, tần tảo của mẹ đẹp đẽ, thơm tho hơn bất cứ thứ gì trên đời. Không gì buồn, trống trải, nhớ nhung bằng cuộc sống phải xa rời vòng tay mẹ, xa hơi ấm của mẹ:
Ta khóc vụng một ngày thưa bóng mẹ
Tiếng gà buồn mổ rỗ mặt hoàng hôn
( Mười một khúc cảm)
Những trạng thái của tinh thần luôn đầy rẫy sự mâu thuẫn, điển hình là sự mâu thuẫn giữa lí trí và xúc cảm. Lí trí bảo hãy mạnh mẽ, kiên cường lên, nhưng cảm xúc vốn là một kẻ cứng đầu, nó không chỉ “hành hạ” nhà thơ trong ý thức mà cả trong tiềm thức:
Năm tháng xa sống xa quê tôi như người bước hụt
Cơn mơ vang tiếng cá quẫy tuột câu như một tiếng nấc
Âm thầm vỡ trong tôi, âm thầm vỡ cuối nguồn
Tỏa mát xuống cơn đau tôi là tóc mẹ bến mòn đứng đợi
Một cây ngô cuối vụ khô gầy
Suốt đời buồn như tiếng lá reo.
Cuộc sống xa quê luôn tạo cho con người những khoảng trống không thể bù đắp, với Nguyễn Quang Thiều, cảm xúc đó lại càng chông chênh, trống rỗng như “người bước hụt”. Cả trong cơn mơ, nỗi nhớ nhà vẫn còn ám ảnh, trong mê man vẫn “vang tiếng cá tuột câu” trên dòng sông đêm tĩnh lặng. “Tiếng cá tuột câu” gợi nhiều suy tưởng, âm thanh tiếng cá tuột câu chỉ vọng lên và tắt lịm, còn lại sự hụt hẫng, nuối tiếc như mất mát một điều gì đó. Thế nhưng đó chưa phải là tất cả, vế so sánh “như một tiếng nấc” mới thực sự là một sự liên tưởng kì lạ. Người đọc có thể không hiểu vì sao nhà thơ có cách so sánh bất ngờ như vậy, tôi nghĩ có khi hoàn thành xong bài thơ, tác giả cũng không hiểu sao mình lại viết thế. Đó có thể là hiện tượng thăng hoa trong sáng tạo nghệ thuật, người nghệ sỹ trong trạng thái đi giữa ranh giới giữa ý thức và vô thức. Tiếng cá tuột câu như một tiếng nấc, hay chính tiếng nấc đó vang lên trong hiện thực. người đàn ông đã khóc nấc trong giấc mơ, tỉnh dậy mà lệ tràn ướt gối. Còn lại đó là sự vụn vỡ, đau đớn đang âm thầm lan ra tận cùng hạ lưu của dòng sông tâm hồn. Cơn đau đó dai dẳng, dữ dội, “liều thuốc” duy nhất có thể xoa dịu là những kí ức về mẹ. Hình ảnh người mẹ thả tóc bay trong gió trên bến mòn mong ngóng đứa con trở về có thể làm dịu những cơn đau của người đàn ông lắm ưu tư. Một hình ảnh thơ đẹp mà buồn, không mới mà vẫn xúc động, đời thường mà đẫm chất điện ảnh. Nhưng nỗi đau có thể dịu mà thương lại càng thương, hình ảnh ẩn dụ: “Một cây ngô cuối vụ khô gầy/ Suốt đời buồn trong tiếng lá reo” nhấn thêm vào nỗi day dứt. Hình ảnh cây ngô cuối vụ khô gầy ẩn dụ cho người mẹ đã già, lam lũ, tần tảo, khô héo. Cây ngô cuối vụ gợi nên sự xác xơ, tàn tạ. Nó càng tội nghiệp hơn trong sự cô đơn, cũng như mẹ lầm lũi trong nỗi buồn, mẹ cứ thầm lặng hi sinh, chịu bao thiệt thòi, cơ cực mà không cần lên tiếng, hình ảnh gợi nên nỗi day dứt, thương cảm khôn nguôi với đứa con xa.Cái hay trong ý thơ ở chỗ, dù mẹ già nơi quê xa khô héo, mỏi mòn, nhưng hình ảnh đó lại như dòng nước mát lành làm hồi sinh từ những đổ vỡ trong lòng nhà thơ.
Đoạn thơ cuối, hình tượng “Mẹ” quay trở lại như một vĩ thanh:
“ Sông Đáy ơi, sông Đáy ơi… chiều nay tôi trở lại
Mẹ già như cát bên bờ
Ôi mùi cát khô, mùi tóc mẹ tôi
Tôi quỳ xuống vốc cát ấp vào mặt
Tôi khóc.
Cát từ mặt tôi chảy xuống dòng dòng”
Tiếng gọi da diết với “sông Đáy” ( được lặp lại hai lần) , tiếng gọi “đèo bòng” bao nỗi niềm về “Mẹ”. Hình ảnh so sánh “mẹ già như cát bên bờ” là cách so sánh rất khó định lượng. Đây không phải lần đầu, Nguyễn Quang Thiều có cách so sánh rất độc này:
“Chiều nay con ngồi ho bên cửa
Bao sợi mưa đứt hết cuối trời
Con chờ đợi nỗi niềm già như cát
Lặng lẽ suốt đời cởi áo thả vào sông”
( Những con thuyền sông Đáy)
“Già như cát” gợi lên cảm xúc về sự cực hạn. Bởi cát bờ sông từ thời tiền sử, ngàn vạn năm vẫn im lặng với đất trời. Mẹ ta đã già như cát, sự già nua của mẹ không tính bằng tuổi nữa, nó mong manh như lá vàng trước gió, nghĩa là ngày xa mẹ đã rất gần. Nhà thơ sử dụng thủ pháp làm mờ nhòe ranh giới giữa sắc thái của các hình ảnh, “mùi cát khô” và “mùi tóc mẹ” vốn là hai tính chất chẳng liên quan gì đến nhau, nhưng trong câu thơ, chúng đã hòa làm một, không thể phân biệt. Đây không phải là “mùi” của khứu giác thông thường, mà nó là “mùi” trong tâm tưởng với tình yêu thương sâu sắc với mẹ và dòng sông. Đó là mùi của quê hương. Trong văn học, có nhiều hình ảnh biểu hiện tình cảm mãnh liệt với mảnh đất quê hương của con người, họ bày tỏ bằng những cách rất trực quan, có người từ xa về đã nếm đất để thỏa nỗi nhớ quê bấy lâu. Nguyễn Quang Thiều vốc cát ấp vào mặt để ôm trọn vào lòng mùi hương ấm áp, đó là ám dụ cho khao khát níu giữ vĩnh cửu những gì quý giá nhất trong thế giới tinh thần của con người. Nhà thơ đã để cảm xúc của bản thân vỡ òa mà không có bất cứ sự can thiệp nào của lí trí. Con người hay sống với một chiếc mặt lạ của những chuẩn mực, người đàn ông luôn bị khoác một khuôn mặt của sự mạnh mẽ, can trường, máu có thể đổ nhưng nước mắt không thể rơi. Thế nhưng, đứng trước những điều thiêng liêng, vĩ đại như vậy, con người có thể lạnh lùng, vô cảm, đó mới là điều khủng khiếp nhất. Nhà thơ đã thừa nhận sự yếu đuối của mình khi những giọt nước mắt đã rơi, cát từ mặt, từ kẽ tay chảy xuống dòng dòng. Dòng cát và dòng nước mắt đã hòa lẫn vào nhau, cát là nước mắt, hay nước mắt cũng là cát, dòng nước mắt của sự bất lực, sợ hãi. Có những điều trong cuộc sống dù quý giá bao nhiêu chăng nữa rồi nó cũng rời bỏ chúng ta. Cũng như nắm cát trong tay, càng nắm chặt thì cát càng trôi nhanh qua kẽ tay, những điều chúng ta càng cuống quýt níu giữ thì nó lại càng nhanh biến mất. Con có thể giữ mãi hình bóng của mẹ, nhưng con không giữ được tuổi mẹ, còn gì đau đớn hơn cảm giác mất mẹ ngày càng gần. Câu thơ cứ vang mãi nỗi bâng khuâng, xúc động với người đọc, bởi ai trong chúng ta cũng sẽ phải đối mặt với điều này. Những mất mát, tiếc nuối trong sự bất lực. Nghe Nguyễn Quang Thiều nói chuyện thơ một vài lần, đặc biệt khi nói về quê hương, về mẹ, cảm tưởng ông không còn nhìn thấy đọc giả đang ngồi trước mặt mình. Đôi mắt người đàn ông ầng ậc nỗi xúc động dù đã kìm nén.
SÔNG ĐÁY VÀ CỐ HƯƠNG
Ở nơi khuất bóng quê hương, tâm sự lại trào lên mãnh liệt, đó là cảm xúc quen thuộc trong thơ ca cổ điển :“Nhật mộ hương quan hà xứ thị?” (Thôi Hiệu). Buổi chiều là khoảng thời gian thường gợi nhiều suy tư, đặc biệt là nỗi nhớ nhà. Thôi Hiệu ngày xưa nhìn khói sóng để hồi tưởng về quê nhà, còn với Nguyễn Quang Thiều, điều đó luôn thường trực, những kí ức về quê hương lúc nào cũng rõ nét, động đậy, cồn cào. Nhiều lúc, nỗi khao khát được trở về khiến ông có những mong muốn vô lý:
Những chiều xa quê tôi mong dòng sông dâng lên ngang trời cho tôi được nhìn thấy
Cho đôi mắt nhớ thương của tôi như hai hốc đất ven bờ, nơi những chú bống đến làm tổ được giàn dụa nước mưa sông.
Đôi mắt buồn bã hướng về phía quê nhà, nơi có dòng sông Đáy và mẹ ở đó, nhà thơ chỉ mong dòng sông dâng cao ngang trời để ông được nhìn ngắm nó cho thỏa nỗi nhớ mong dù biết đó là sự phi lý. Đường cong vật lý của trái đất không thể nào cho ông thỏa nguyện dù nhà thơ có con “mắt thần” nhìn xa vạn dặm đi chăng nữa thì mong muốn đó cũng bất khả thi. Đôi mắt xa xăm đó hướng về một khoảng không gian thăm thẳm, vô định, nó khác với cái nhìn: “Duy kiến Trường giang thiên tế lưu” của Lí Bạch. Lí Bạch nhìn xa xăm để dõi theo cái buồm đang dần khuất trên dòng Trường Giang hùng vĩ như đang chảy vào cõi trời, nhưng ít nhất Lí Bạch còn có cái để dõi theo. Vậy nên con mắt vô vọng đó không còn hướng ra ngoại cảnh nữa mà nó hướng vào trong, hướng vào trí nhớ, hướng vào những hình ảnh đang rõ mồn một như một cảnh phim.
Trong thơ Nguyễn Quang Thiều, người đọc hay bắt gặp những hình ảnh của sự “hóa thân”. Với quan niệm con người luôn là một phần máu thịt của quê hương, thơ ông luôn đau đáu nỗi niềm đồng cảm với hơi thở của quê nhà, muốn hòa cả thể xác và tâm hồn vào từng tấc đất, nơi:
“Tôi hát về cố hương tôi
Bằng khúc ruột tôi đã chôn ở đó
Nó không tiêu tan
Nó thành giun đất
Bò âm thầm dưới vại nước, bờ ao
Bò quằn quại qua khu mồ dòng họ
Bò qua bài tha ma người làng chết đói
Đất đùn lên máu chảy dòng dòng”
( Bài hát về cố hương)
Trong “ Sông Đáy”, một lần nữa khao khát “hóa thân” đó được lặp lại, nhà thơ tưởng đôi mắt nhớ thương của mình đã hóa thành hai hốc đất bên bờ sông, nơi những con cá bống tìm đến làm tổ, để nước mưa sông giàn giụa màu phù sa. Cách so sánh kì lạ trong thi ảnh đem đến một mĩ cảm, trải nghiệm mới mẻ của tưởng tượng cho người đọc. “Hai hốc đất ven bờ”, “giàn dụa nước mưa sông” phản chiếu hình ảnh đôi mắt thẳm sâu, đẫm lệ, xa xăm đang hướng về phía cố hương.
SÔNG ĐÁY VÀ EM
Hình tượng “em” trong phần cuối bài thơ mang một ấn tượng đặc biệt . Ngoài mục đích, lột tả những phức cảm ngày trở lại, đó là sự pha trộn ngổn ngang những cảm xúc trong tình yêu, tình thương, những nuối tiếc , hoang mang như một “ vết cắt” sâu vào tâm tưởng, Nguyễn Quang Thiều có ý thức tạo sự hài hòa trong quan niệm âm dương. Tại sao dòng sông không gắn với hình ảnh của cha mà lại gắn với “Mẹ” và “Em”, bởi chúng đều mang tính âm, điều này tạo nên sự thống nhất trong kết cấu song hành của các hình tượng thơ, bởi những đối tượng này có những tính chất tương đồng, gần gũi, chúng xuyên thấu vào nhau, làm nền cho nhau để đào sâu thêm cái tôi nội cảm của tác giả. Với thủ pháp điệp cấu trúc “Sông Đáy ơi! chiều nay tôi trở lại”, đoạn thơ thể hiện tình cảm tha thiết, háo hức, mong chờ. Tiếng gọi đầy yêu thương với dòng sông như thể, tất cả nỗi vui mừng, náo nức đang trực vỡ òa khi đứa con xa đã tìm về nhà. Thế nhưng, tất cả chỉ còn lại sự hẫng hụt, một nỗi buồn mênh mang của sự muộn màng.
“ Sông Đáy ơi! Chiều nay tôi trở lại
Những cánh buồm cổ tích đã bay xa về một niềm tức tưởi
Em đã mang đôi môi dâu chín sang đò một ngày sông vắng nước
Tôi chỉ gặp những bẹ ngô trắng trên bãi
Tôi nhớ áo em tuột rơi trên bến kín một trăng xưa”
Đây là đoạn thơ có những thi ảnh rất đẹp, rất thơ, nhưng nó lại được kết hợp hết sức “trái khoáy” với cấu trúc “dân dã”, “nôm na”. “Cánh buồm cổ tích” gợi vẻ đẹp thơ mộng, sương khói, nó gợi đến những kí ức tươi đẹp xa xôi, thế nhưng giờ đã bay xa về “một niềm tức tưởi”. Đọc câu này hẳn nhiều người sẽ nhảy dựng lên, bởi từ “tức tưởi” đã phá hỏng đi cái màu sắc lãng mạn, bay bổng trong thơ. Nhưng có thể, Nguyễn Quang Thiều đã cố tình tạo ra sự “ức chế” đó. Sự đối lập giữa cái đẹp thơ mộng và hiện thực gồ ghề, thô ráp càng nhấn sâu vào tâm trạng day dứt, tiếc nuối. Sự “lệch chuẩn” này là một thủ pháp sơ khai, “dọn mặt bằng” cho những “ đường băng” cách tân rộng hơn ở giai đoạn sau. Những cánh buồm hoa mộng đã trở thành dĩ vãng, nó đã khuất sau những ngang trái, tiếc hụt, vô thường của cuộc sống. Nó góp phần tô đậm cái đối lập đầy trắc trở của câu thơ: “Em đã mang đôi môi màu dâu chín sang đò một ngày sông vắng nước”. Hình như thi sỹ làng Chùa luôn biết cách gieo sự day dứt vào lòng người đọc, đó là day dứt về sự lỡ dở, không trọn vẹn. Motip người trai phương xa trở về thì “Em”, cô gái mang mối tình vụng dại đã sang sông khá quen thuộc trong thơ ca, nhưng câu thơ này bên cạnh “tiếc” còn là “thương”, bên cạnh hàm ý trách móc còn là sự bao dung, lo lắng. “ Đôi môi màu dâu chín” đã nói hết được vẻ đẹp xuân thì, mơn mởn của “Em”, nhưng nó lại được đặt bên hình ảnh “một ngày sông vắng nước” đầy trớ trêu. Theo quan niệm dân gian về tâm linh tồn tại đến ngày nay, những việc đại sự thường được cử hành vào những ngày đẹp, và thông thường là những ngày nước lên. Nhưng “ngày sông vắng nước” lại là ngày nước kém, là ngày xấu, nó là dự cảm cho một tương lai không lành. Ngày em sang sông trong con nước kém gợi lên nỗi trăn trở, dằng díu không thoát ra được của người trở về. Đọc đến hai câu thơ “Tôi chỉ gặp những bẹ ngô trắng trên bãi/ Tôi nhớ em tuột rơi trên bến kín một trăng xưa”, người viết bài này đã không kìm được cảm xúc sung sướng, đã đầy, thống khoái. Hai câu thơ một lần nữa tạo nên những đối lập, giữa có- không, hiện thưc- quá khứ, cái đẹp đẽ- sự tàn tạ, ấy thế mà chúng là ánh xạ vào nhau, cùng tôn nhau lên. Người trở về trong hoài niệm về “Em” khi người đã phương trời cách biệt, thế nhưng hình bóng em vẫn lẩn quất đâu đây, như hằn vào cảnh vật. Những bẹ ngô trắng trên bãi, hay còn gọi là áo ngô, khi thu hoạch người ta có thể bóc những bẹ ngô xòe ra để bẻ bắp. Vậy mà bằng một cách nào đó nhà thơ liên tưởng đến chiếc áo em tuột rơi trên bến kín một đêm trăng xưa- một hình ảnh đẹp mộng mị, gợi cảm, quyến rũ. Thơ Nguyễn Quang Thiều cũng mang nhiều yếu tố tính dục, tuy nhiên những hình ảnh đó thường không đem lại những nhục cảm thấp hèn, trái lại nó vô cùng thánh thiện, tinh khiết và đầy tính nhân bản.
“Sông Đáy” được đưa vào giảng dạy trong sách Ngữ Văn THPT nằm trong chiến lược hiện đại hóa chương trình giáo dục, cập nhật xu thế phát triển của văn học. Phải khẳng định rằng Nguyễn Quang Thiều là một trong những gương mặt hàng đầu của thơ Việt Nam đương đại, vì thế việc đưa tác phẩm của ông vào dạy học cho học sinh là điều dễ hiểu. Tuy vậy trên hết “ Sông Đáy” là một bài thơ hay, có giá trị nghệ thuật, mang tính nhân bản sâu sắc . Với yêu cầu hình thành và phát triển những năng lực cho cho học sinh trong bối cảnh mới, việc đưa vào giảng dạy những tác phẩm mang hơi thở đương đại góp phần hình thành cho học sinh khả năng cảm thụ nghệ thuật sâu sắc hơn. Đặc biệt, trong thực trạng các giá trị truyền thống đang bị lung lay trước cơn sóng của kinh tế thị trường, của lối sống thực dụng, xu thế toàn cầu hóa, việc giáo dục cho trẻ những tình cảm thiêng liêng với quê hương, gia đình, biết ơn với ông bà, cha mẹ, có ý thức giữ gìn những giá trị văn hóa dân tộc là điều cấp thiết, và bài thơ này đáp ứng được yêu cầu đó.
Nguyễn Tuấn